Up

 

 

 

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

Giáo-Sư Nguyễn Văn Canh

 

Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Việt cộng và Trung cộng đă kư 2 Hiệp định cho đến nay chưa được phê chuẩn.

Trên một bài viết đăng trong tạp chí Cộng sản vào tháng 2 năm 2001, với nhan đề Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Định Hợp tác Nghề Cá giữa Việt nam- Trung quốc trong Vịnh Bắc Bộ. Lê công Phụng, thứ trưởng ngoại giao nói về Hiệp định phân định ranh giới như sau: Về diện tích tổng thể ta được 53,23% diện tích trong Vịnh. Trung quốc đạt 46,77% (ta hơn Trung quốc 6,46% tức là khoảng 8,205 km2). Về Hiệp định Hợp tác Nghề Cá, Phụng viết hai bên nhất trí lập vùng đánh cá chung ở trong vịnh Bắc Bộ từ vĩ độ 20 xuống đường đóng cửa Vịnh. Vùng này có bề rộng là 30.5 hải lư kể từ đường phân định về mỗi phiá, và có tổng diện tích là 33,500 km2, tức là khoảng 27,9% diện tích. Thời hạn là 15 năm (12 năm chính thức và 3 năm gia hạn). Ngoài vùng đánh cá chung ra, hai bên thoả thuận về dàn xếp quá độ với thời hạn 4 năm ở Bắc vĩ tuyến 20 cho tàu thuyền của hai bên đánh bắt.

Nếu ta so đường ranh MÀU ĐỎ hay là đường Constans do Công ước 1887 giữa Pháp và Nhà Thanh thiết lập trước đây để phân chia vùng vịnh, th́ Việt cộng đă nhượng cho Trung cộng khoảng hơn 9% diện tích của vịnh hay tương đương với khoảng 11,000 km2.

Ngoài ra, với Hiệp định Hợp tác Nghề Cá, Việt cộng đă chấp thuận cho Trung cộng vào sâu trong lănh hải của Việt nam để đánh cá. Sở dĩ hai bên chưa phê chuẩn hai hiệp ước này là v́ c̣n thương thuyết về số lượng, cỡ tầu đánh cá vào hoạt động trong vùng đánh cá chung. Người ta được biết rằng, các công ty đánh cá quốc doanh của Trung cộng có những đoàn ngư-thuyền lớn, trang bị lưới dài tới 60 dậm. Các tàu ấy nếu được vào sâu hoạt động sát bờ biển Việt nam 30 hải lư như qui định trong hiệp định, th́ tài nguyên của quốc dân sẽ bị khô cạn trong một thời-gian ngắn.

Trong tháng hai vưà qua, khi Giang trạch Dân sang viếng thăm Việt Nam, dù không có tiết lộ công khai về áp lực phải gấp rút phê chuẩn, nhưng Vũ Khoan, Bộ trưởng Thương Mại Việt cộng có tuyên bố rằng đă có tiến bộ về thương lượng hiệp định ấy.

Đảng cộng sản Việt nam lén lút hiến dâng một phần lănh thổ trên đất liền cho Đảng cộng sản Trung hoa. Để thực thi hiệp định trên đất liền, vào 27 tháng 12 năm 2001, hai bên đă làm lễ cắm mốc để thiết lập đường ranh biên giới mới tại Móng cái và Đông hưng. Qua công tác này, dân chúng mới được biết Việt cộng đă hiến dâng một số địa điểm cho Trung cộng. Thí dụ những nơi có tính cách lịch sử gắn liến với đời sống dân tộc tượng trưng cho công cuộc bảo vệ một cách kiêu hùng sự vẹn toàn lănh thổ như Ai Nam Quan; thắng cảnh danh tiếng như Thác Bản Giốc đă trở thành tài sản của ngoại bang. Và người ta chỉ được biết một cách không chính xác vị trí khoảng 164 điạ điểm chiến lược trọng yếu nằm dọc theo biên giới Quảng ninh, Lạng sơn, Cao bằng, Hà giang, Lào cai có địa thế hiểm trở đă giúp cho dân tộc Việt đánh bại quân xâm lăng Bắc phương trong các thế kỷ trước nay đă được Đảng Cộng sản Việt nam chính thức chuyển nhượng cho kẻ thù của dân tộc.

Nay với hai hiệp định này, diện tích vịnh Bắc Việt của Việt nam lại bị thu hẹp gần một phần mười trong tổng số diện tích và cả tài nguyên trong vịnh cũng được nhượng cho ngoại bang vào khai thác.

Dù Việt cộng giữ bí mật các hiệp ước đó, việc hiến dâng lănh thổ trên đất liền và trong vùng Vịnh cho Trung cộng đă trở thành hiển nhiên, không thể chối căi được. Để cho mọi người hiểu rơ hơn vùng Vịnh Bắc Việt, nguyên Hạm-Trưởng Hải-Quân VNCH Vũ Hữu San, một học giả khả-kính thuộc Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lănh Thổ Việt Nam đă dành nhiu công sưu-tầm, nghiên-cứu về địa-lư để chứng-minh chủ-quyền của Việt-Nam trên vùng biển Vịnh Bắc-Việt. Công-tŕnh nghiên-cứu ấy đă hoàn-tất và được ấn-hành dưới nhan-đề VỊNH BẮC-VIỆT - ĐỊA-LƯ và CHỦ-QUYỀN HẢI-PHẬN

            Đây là một công-tŕnh nghiên-cứu hết sức công-phu với nhiều khám-phá mới. Ông Vũ hu San đă cho độc-giả thy rng Ông có kiến-thức uyên-thâm, thông-hiểu về hải-dương-học, địa-chất-học, sinh-vật-học, thảo-mộc-học, văn-minh-học, nối kết các dữ-kiện hiện có để chứng-minh Vịnh Bắc-Việt thực sự là nơi khai-nguyên của dân-tộc. Với quan-niệm mới mẻ, tác-giả đưa người đọc đi về t́m hiểu nguồn gốc dân-tộc, từ những ngày theo Mẹ lên Núi (Tây-tiến), theo Cha xuống Biển (Đông-tiến), rồi hợp-đoàn trong nỗ-lực Nam-Tiến. Ngụ ư rằng công-tŕnh Đông-Tiến vẫn c̣n đang tiếp-tục, Ông kêu gọi mọi người Việt-Nam theo bước tiền-nhân, khai-thác và bảo-vệ Biển Đông, trong đó có vùng tối trọng-yếu là Vịnh Bắc-Việt.

            Riêng về vấn- đề hải-phận Vịnh Bắc-Việt, tác-giả đă:

-          phân-tích rành mạch tính-cách bất b́nh-đẳng của hiệp-ước vừa kư-kết,

-          đả phá tính-chất thiếu công bằng, vô-lư trong quan-hệ giữa Việt - Hoa hiện nay,

-          mong tạo dư-luận rộng răi dứt-khoát không chấp-nhận Hiệp-định Phân-định Vịnh Bắc Bộ và cả Hiệp định Hợp tác Nghề Cá, v́ nó ảnh-hưởng trực-tiếp đến sự tồn tại và phát triển lâu dài của đất nước.

Trong một chương quan-trọng của cuốn sách, tác-giả đ-nghị những biện-pháp khả-thi cho cả hai nước. Ông cũng ước-lượng một số đường ranh giới hải-phận một cách công-bằng thể theo Luật Biển Liên-Hiệp-Quốc và công-pháp quốc-tế hiện-hành.

Tài-liệu tham-chiếu và viện dẫn rất là phong-phú. Học giả Vũ-Hữu-San đă sưu-tầm được rất nhiều tài-liệu do những tác-giả có uy-tín viết về vấn-đề này. Cuốn VỊNH BẮC-VIỆT - ĐỊA-LƯ và CHỦ-QUYỀN HẢI-PHẬN có tới cả trăm bản-đồ và h́nh-ảnh giúp cho người đọc nh́n thấy ngay được vấn-đề.

            Cuốn Vịnh Bắc Việt- Địa lư và Chủ Quyền Hải Phận cũng có một giá trị rất cao, như cuốn Điạ lư Biển Đông với Trường Sa và Hoàng Sa của tác giả mà Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lănh Thổ Việt Nam đă bảo trợ cách đây đúng 7 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1995.

Với một phương pháp làm việc nghiêm túc theo tiêu chuẩn cao độ, tương đương với qui luật của các Viện Nghiên Cứu hàng đầu tại xứ này, học giả Vũ Hữu San đă thành công trong công tác mà ông đảm nhiệm.

Chúng tôi mong ước rằng người tị nạn ḿnh sẽ tiếp tay phổ biến cuốn sách có giá trị này đến nhiều nơi như Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toành Lănh Thổ trước đă làm đối với cuốn Địa Lư Biển Đông với Trường Sa và Hoàng Sa.

 

Ngày 30 tháng 4 năm 2002

Đại diện Ủy Ban Bảo Vệ Lănh Sự Vẹn Toàn Lănh Thổ Việt Nam

Nguyễn Văn Canh

 

 

 

 

Chương 1

Vịnh Bắc-Việt, Mở Đề

Một Danh-Từ - Nhiều Huyền-Thoại

 

1.1 -Vịnh Bắc-Việt Tổng-quát và Một Danh-từ

Trong cuốn sách “Vịnh Bắc-Việt” này, chúng tôi luận-bàn về địa-lư vùng biển nằm ở phía Đông của phần đất cực Bắc nước-Việt: Vịnh Bắc-Việt.

Phần đất Bắc-Việt-Nam (hay nói tắt là Bắc-Việt) dưới thời Pháp-thuộc được gọi là Bắc-Kỳ, sau đổi thành Bắc-Bộ dưới thời Chính-phủ Trần-Trọng-Kim và sau đổi ra Bắc-phần[1]. Trong những giai-đoạn nội-chiến Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn-Tây Sơn; đất Bắc thường được gọi là Đàng Ngoài hay Bắc-Hà. Vịnh biển cạnh đó mang những tên như Vịnh Bắc-Kỳ, Vịnh Bắc-Phần, Vịnh Bắc-Bộ hay Biển Bắc, Biển Đàng Ngoài hay Vịnh Bắc-Hà. Bản-đồ Hồng-Đức (thế kỷ XV), ghi tên Vịnh là Đại-Hải, phù-hợp với tên nôm-na mà dân-chúng thường dùng là Bể Lớn hay Bể Đông.

Chúng tôi chọn danh-từ “Vịnh Bắc-Việt” khi đề-cập tới vùng biển lớn hơn Vịnh của Bắc-phần hay Bắc-bộ. Đó là khu-vực biển cả nằm cạnh vùng đất phía Bắc của Việt-Nam[2], từ biên-giới Việt-Hoa tại Mũi Trà-Cổ, Móng-Cái tới Đảo Cồn Cỏ thuộc tỉnh Quảng-Trị, Trung-phần Việt-nam.

Trên những bản-đồ hay hải-đồ quốc-tế, người ta đọc thấy những danh-từ chỉ Vịnh Bắc-Việt như sau: Grand Golfe, Golfe du Tonquin [Tonqeen], Golphe de Tunquin, Baye de Tonquin, Golfe de Cochinchine, Gulf of Tonkin [Tonking], Tonkin Gulf…Trên các bản-đồ vẽ theo tài-liệu Ptolemy, Vịnh Bắc-Việt được ghi là Signus Magnus, Cinus Magnus (Vịnh Lớn – Grand Golfe). C̣n người Trung-Hoa gọi những tên như Chướng-Hải, Giao-Chỉ-Dương, Vịnh Bắc-Bộ (Beibu-Wan).

Nói tổng quát, Vịnh Bắc-Việt được bao bọc bởi Việt-Nam và Trung Hoa có diện-tích 126,250 km2 [3]. Chiều ngang nơi rộng nhất (từ Diễn-Châu, Nghệ-An đến Đông-Phương, Hải-Nam) khoảng 320 km (176 hải-lư) và chỗ hẹp nhất nơi cửa Vịnh (từ Đảo Cồn Cỏ đến Mũi Oanh-Ca) khoảng 220 km (119 hải-lư).

 

H́nh 1. Tấm Bản-đồ đầu tiên[4] của nước ta có ghi Bể Lớn[5] tức Vịnh Bắc-Việt (trong tập Hồng-Đức Bản-Đồ -1490).Lưu-ư Ải Nam-Quan (phía Bắc) và Đại-Hải (phía Đông-Nam)

 

Phần Vịnh phía Việt-Nam có khoảng 1,300 ḥn đảo[6] ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch-Long-Vĩ nằm cách đất liền Việt-Nam khoảng 110 km (59.4 hải-lư), cách đảo Hải-Nam (Trung Quốc) khoảng 130 km (70,2 hải-lư).

 

 

H́nh 2. Vịnh Bắc-Việt giáp-giới với 3 tỉnh Trung-Hoa

 

Nếu lấy Vịnh Bắc-Việt làm trung-tâm nh́n ra thế-giới:

-Trong ṿng bán-kính 1500 hải-lư, ta thấy các thành-phố, hải-cảng quan-trọng như Bangkok, Rangoon, Calcutta, Singapore, Djakarta, Manila, Taipei, Hongkong, Shanghai, Nagasaki.

-Trong ṿng bán-kính 2500 hải-lư, ta thấy các thành-phố, hải-cảng Madras, Colombo, Bombay, Bali, Darwin, Guam, Tokyo, Yokohama, Seoul, Beijing... 

Mang nhan-đề là “Vịnh Bắc-Việt, Địa-Lư & Chủ-Quyền Hải-Phận “, cuốn sách này rơ rệt muốn bàn nhiều vấn-đề hơn là chỉ mô-tả địa-lư thuần-túy. Như khi viết cuốn sách “Địa-Lư Biển Đông” (năm 1995), lần này chúng tôi cũng sẽ đi ra ngoài khuôn-khổ giáo-khoa để lạm-bàn thêm các diễn-biến cận-đại. Lại nhằm lúc không-khí sôi-động v́ đồng-bào ta, trong cũng như ngoài nước, phẫn-nộ đứng lên tố-cáo Hà-Nội dâng đất dâng biển cho Trung-Cộng, chúng tôi xin ghi thêm một vài lư-lẽ về việc tranh-căi chủ-quyền trên biển. Trong khả-năng riêng, chúng tôi ước-lượng và đề-nghị một số đường ranh-giới hải-phận thể theo luật-pháp quốc-tế hiện-hành.

 

H́nh 3. Vịnh Bắc-Việt – H́nh-thể tổng-quát

 

1.2 - Miền Bắc Khai-Nguyên

Trong giai-đoạn khai-nguyên dân-tộc, từ thời Văn-Lang qua đến thời Đại-Việt, biển nước ta c̣n hẹp, gần như xấp-xỉ trùng hợp với vùng biển “Vịnh Bắc-Việt” này [7].

Qua cuốn sách “Miền Bắc Khai-Nguyên”, các Ông Cửu-Long-Giang và Toan-Ánh đă mô-tả đầy đủ về đất-đai và một phần sơ-sài hơn về biển của Miền Bắc-Việt-Nam. Hai Ông-thường hợp-biên và là tác-giả những tập “Việt-Nam Chí-Lược” hồi các thập-niên 1960-1970[8]. Phần sơ-lược về Địa-lư Miền Bắc được giới-thiệu như sau: “Ở nơi trung-tâm khai-nguyên này của dân-tộc, tổ-tiên chúng ta đă phải luôn đấu-tranh để giữ cho giống ṇi được tồn-tại, đất nước được vững bền, văn-hóa được mở mang… Đất nước chúng ta từ ngày lập-quốc chỉ vỏn vẹn gồm có Bắc-Việt và Miền Bắc Trung-Việt.” Về mục-đích viết và đọc sách địa-lư, các Ông Cửu-Long-Giang và Toan-Ánh viết rằng: “Biết xứ-sở để yêu xứ-sở, để hănh-diện v́ xứ-sở, nhất là v́ những công-tŕnh của Tổ-tiên đă xây-đắp nên xứ-sở”.

 

1.3 - Văn-hóa Nước từ Sinh-hoạt Biển đi vào

Nói một cách chung khi tŕnh-bày thêm những yếu-tố địa-lư về Vịnh Bắc-Việt, chúng tôi tiếp-tục đi theo sau các Ông Cửu-Long-Giang và Toan-Ánh cùng một số tác-giả khác đă viết về địa-lư Việt-Nam. Tuy vậy trong khía-cạnh riêng-biệt của chí-lược, chúng tôi có ư nghiêng việc nghiên-cứu về một quan-niệm địa-lư mới hơn. Lúc viết rằng “Miền Bắc Khai-Nguyên”, chúng tôi tự đặt câu hỏi “có ǵ đi trước sự khai-nguyên đó không?”.

Khi nghiên-cứu truyền-thuyết người ta có thể hiểu được tiến-tŕnh h́nh-thành của một dân-tộc. Đó là ư-kiến của Keith Weller Taylor khi viết cuốn sách "The Birth of Vietnam". Trong chương đầu tiên (1- Lac Lords), Taylor bàn ngay đến những cách nh́n của ông về truyền-thống hàng-hải Việt-Nam qua những truyện thần-thoại đầu tiên của dân-tộc chúng ta. Theo đó những vua Hùng truyền đi từ Kinh-Dương-Vương, Lạc-Long-Quân. Ông vua Rồng Lạc-Long này quê từ ngoài biển cả đi vào, giúp dân trừ yêu-quái trên đất liền, dạy dân cách trồng lúa để ăn, may quần áo để mặc.[9]

Nhân lúc nghiên-cứu về sinh-hoạt biển-cả Việt-Nam, có thể chúng tôi đă t́m ra câu trả lời. Đó là ảnh-hưởng của một nền “Văn-hóa Nước” đến từ Vịnh Bắc-Việt sau Thời-đại Băng Đá, trước khi dân ta quy-tụ lập-nghiệp tại vùng châu-thổ Sông Hồng. Giả-thuyết này đă được chúng tôi giới-thiệu trong cuốn “Địa-Lư Biển Đông với Hoàng-Sa và Trường-Sa, nay được tŕnh-bày thêm qua số chứng-liệu mới..

 

1.4 - Vịnh Bắc-Việt, Bể Đông, Biển Tây và các Tên Gọi

Truy-nguyên nguồn-gốc, chúng ta thấy rằng danh-từ “Vịnh Bắc-Việt” c̣n tương-đối rất mới. Bể Đông hay Biển Đông là chính-danh lâu đời tên gọi vùng biển nước ta. Tên gọi “Biển Đông” rất có thể đă được Tổ-tiên chúng ta là cư-dân bản-địa sử-dụng từ hàng chục ngh́n năm xưa, hiển-nhiên trước cả khi lập-quốc. 

Người Việt chúng ta chỉ mới khởi-sự nghĩ đến sự cần-thiết phải xác-định danh-từ “Vịnh Bắc-Việt” khi bắt đầu cuộc Nam-tiến, xuôi theo đồng-bằng Nam-Ngăi-B́nh-Phú vào Nam. Rồi cuối cùng, lúc ngừng chân tại vùng đất màu mỡ Cửu-Long-Giang, cư-dân mới người Việt gọi Vịnh Phú-Quốc là Biển Tây v́ vùng biển này nằm về phía Tây của họ. Tên Biển Tây mang tính-cách địa-phương, không có ư-nghĩa nhiều về địa-lư.

Nói một cách tổng-quát, tên biển Việt-Nam như sau:

- Tên Vịnh Bắc-Việt để chỉ vùng biển đoạn Móng-Cái - Đảo Cồn Cỏ.

- Tên Biển Tây hay Vịnh Phú-Quốc (đoạn Cà Mau - Hà-Tiên - Phú-Quốc - Thổ-Chu) xuất-hiện từ thế-kỷ 18.

- Bể Đông hay Biển Đông là tên Biển bản-địa lâu đời của dân ta.

Ngày nay, Biển Đông được hiểu là biển lớn bao gồm cả Vịnh Bắc-Việt và Vịnh Phú–Quốc. Hơn thế nữa, Biển Đông là vùng biển của Đông-Nam-Á, bao quanh bởi các nước-Việt-Nam, Kampuchea, Thái-Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei, Philippines, Taiwan và Trung-Hoa.[10] Trên bản-đồ toàn-cầu, người ta thường dùng "Biển Nam Trung Hoa", nhưng mọi người đều biết rằng tên đó lúc đầu đă được các nhà hàng-hải thời-kỳ cổ đại đặt ra là để chỉ vị-trí, hoàn toàn không phải là để chỉ chủ quyền[11].

 

1.5 - Hành-tŕnh Dân-Tộc trước khi Nam-Tiến

Từ “Miền Bắc Khai-Nguyên”, dân ta bắt đầu Nam-Tiến khoảng một ngàn năm qua. Đă có nhiều tài-liệu viết về công-tŕnh này và sử sách cũng ghi chép đầy đủ. V́ e-ngại đồng-bào đă vô-t́nh quên-lăng hai công–tŕnh khác tiến-hành trước đó rất lâu, chúng tôi muốn tŕnh-bày những giả-thuyết và đề-nghị ghi thêm hai danh-từ mới là Tây-Tiến và Đông-Tiến vào cho được đầy đủ.

Từ xa xưa, người Việt đă cư-trú trên các đảo ven bờ và dần dần mở rộng các hoạt-động kinh-tế trên các quần-đảo ở xa trên biển Đông. Ngay trong truyền-thuyết Lạc-Long-Quân và bà Âu Cơ về nguồn gốc dân-tộc-Việt-Nam, cũng đă thấy nói rằng 50 người con theo cha (Lạc-Long-Quân) xuống biển và 50 người con theo mẹ (Âu Cơ) lên núi. Những người con này của hai ông bà về sau đă sinh thêm con đàn cháu đống và đă hợp sức khai-phá toàn lănh-thổ Việt-Nam.[12]

Mặc dù đấy chỉ là truyền-thuyết nhưng nó có một ư nghĩa nhất-định: những người Việt cổ ngay từ đầu đă làm ăn sinh sống ở ngoài biển, trên những đảo và quần-đảo tiếp cận. Hơn thế nữa lúc khởi-nguyên, rất có thể Tổ-tiên ta đă từ ngoài Vịnh biển Bắc-Việt di-cư vào. Huyền-thoại Lạc-Long-Quân chính là biểu-tượng truyền-kỳ của cuộc Tây-Tiến, cuộc hành-tŕnh đầu-tiên của Dân-tộc.

H́nh 4. Bản-đồ Nam-tiến

 

1.6 - Tây-tiến và Đông-Tiến

Các tài-liệu khảo cổ của Madeleine Colani chứng minh rằng con người đă định-cư trên các đảo ven bờ Vịnh Bắc-Việt, trong khu-vực hai quần-đảo Hạ-Long và Bái-Tử-Long từ 10,000 năm nay. Bà Madeleine Colani xếp sinh-hoạt lúc ấy vào nền Văn-minh Bắc-Sơn. Theo giáo-sư Lê-Bá-Thảo, thời đó là giai-đoạn cuối của nền văn-hóa Ḥa B́nh, sinh-hoạt cư-dân c̣n được thể-hiện trong các di chỉ Soi Nhụ (cách đây khoảng trên 10 vạn năm) và nền văn-hóa Cái Bèo (khoảng 6 ngh́n năm trước). Đến nền văn-hóa Hạ-Long (khoảng 4000-5000 năm trước) th́ con người đă sinh cơ lập nghiệp trên đới ven biển, bao gồm cả các đảo và dải đất duyên-hải.

Nói chung, khi đi sâu từ phía biển cả vào phía núi rừng, người ta thấy chứng-tích sinh-hoạt loài người tại vùng núi ven biển sớm sủa hơn những vùng cao-nguyên nằm sâu trong nội-địa.

Các Khoa-học-gia cho biết sau thời-đại Băng-đá có một thời-kỳ biển tiến. Tất cả những vùng đồng-bằng bao-la Sunda (phía Nam Biển Đông), đồng-bằng Nanhai (trên nền Vịnh Bắc-Việt) bị ch́m ngập dưới đại-dương. Nước biển tràn vào tới Việt-Tŕ. Con người thuộc nhiều sắc-tộc khác nhau phải cùng nhau dồn lên cư-trú dọc theo chân núi. Họ sống chủ-yếu bằng săn-bắt và hái lượm, trồng rau đậu với công-cụ đá thô sơ. Những điểm cư-trú của tiền-nhân được phân-bố khá gần nhau: dọc theo khu Thanh-Hóa, Ninh-B́nh, Ḥa-B́nh, ở phía Tây-Nam; vùng Bắc-Ninh, Đông-Triều, Bắc-Sơn, Hạ-Long phía Đông-Bắc… Cuộc hành-tŕnh Tây-Tiến đă kết-hợp dân-tộc. Văn-minh Ḥa-B́nh bắt đầu tỏa sáng.

Thời-gian tồn-tại của họ cách nay khoảng trên mười ngh́n năm...Rồi nước biển rút dần; vào thời-điểm cách nay khoảng bảy ngh́n năm, con người rời núi non, tràn xuống chiếm-lĩnh đồng-bằng châu-thổ. Đây là cuộc hành-tŕnh Đông-Tiến, tiền-nhân bành-trướng khu-vực sinh-hoạt ra khắp duyên-hải Vịnh Bắc-Việt.

Môi trường sống đă dễ chịu hơn trước; thức ăn khá dồi dào, ngoài dă thú và rau đậu, c̣n có cá tôm, nhất là ṣ hến nhiều không kể xiết. Công-cụ đá đựợc hoàn thiện một bước, đồ gốm làm bằng tay bên cạnh đồ gốm làm bằng bàn xoay.

Chester Norman cũng cho ta một sự mô-tả tương-tự về Tây-tiến và Đông-tiến như sau:

Norman cho rằng nền Văn-minh Ḥa-B́nh được tạo-dựng trong thời-gian thềm lục-địa Sunda (và Nanhai) bị ngập nước. Khi đó vịnh Bắc-phần và vịnh Thái-Lan mà lúc trước là hai vùng đồng-bằng trũng, nay cũng thành-h́nh.

Từ nhiều ngàn năm trước, người dân thuộc nền văn-hóa Hoà-B́nh ở miền Tây Biển Đông chỉ sống bằng cách săn-bắn, hái-lượm và trồng trọt ruộng khô trong những vùng thung-lũng. Bỗng nhiên mật-độ dân-cư tăng lên nhanh, con người phải có phương-pháp mới để sản-xuất thêm thực-phẩm. Loài trâu, loài heo được gia-súc-hóa.

 

H́nh 5. Bản-đồ ghi-nhận những đường di-dân “Tây-tiến” từ Nanhailand ngoài Biển Đông vào đất liền trong thời Hậu Băng-Đá[13] 1-Dân di-cư đông-đảo nhất theo Hồng-Hà. 2-Theo sông Mekong. 3-Theo sông Chao Phraya. 4-Theo các ḍng sông cổ xưa từ vùng biển Bali Sea. 5-Theo Tây-giang. 6-Theo Dương-Tử

 

Người ta di-chuyển từ thung-lũng xuống khai-phá đồng-bằng. Yếu-tố quan-trọng nhất của đà phát-triển là sự ra đời của các giống cây cho hạt. Những loại ngũ-cốc thuần-hóa sau này thích-hợp cho ruộng nước. Khoảng 5,500 năm trước, cây lúa đă được trồng trọt.[14] 

 

 

H́nh 6. Việt-Nam nằm trong vùng phân-bố cây lúa dại. Lưu-ư địa-bàn Trung-Hoa thời cổ không có loại cây này

 

Truyền-thuyết “Âu-Cơ - Lạc-Long-Quân với 50 con đi lên miền núi đồi, 50 con xuống miền sông biển” đă xác-nhận các công-tŕnh Tây-tiến của tiền-nhân Việt-tộc từ Vịnh Bắc-Việt đi vào đất liền và Đông-tiến từ núi đồi, kéo nhau xuống khai-thác những vùng đất tân-bồi phía Đông. Truyền-thuyết cũng nhằm giải-thích sự có mặt của các bộ lạc khác nhau trước đây từ khắp các nơi thuộc đồng-bằng Biển Đông, nay cùng tạo-dựng nên cội nguồn thống-nhất, cao-quư của dân-tộc Việt-Nam.

 

 

H́nh 7. Các địa-điểm khai-quật thời Thạch-khí thường dọc theo chân núi. Vùng châu-thổ không có di-chỉ nào cổ.

 

 

1.6 - Khai-sinh của Biển Đông

Vịnh Bắc-Việt “tương-đối” c̣n trẻ và đă thay h́nh đổi dạng liên-tục trong quá-khứ.

So-sánh với niên-đại của lục-địa Việt-Nam (thường gọi là Indosinias hay Indosinia), và cả Biển mẹ của nó là Biển Đông, Vịnh Bắc-Việt có một số tuổi rất là khiêm-nhường.

Khi nói về sự bền vững của nền lục-địa xứ ta, Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ đă viết rằng "Việt-Nam nằm trên khối Indosinias của vỏ Trái đất bền vững từ mấy trăm triệu năm nay[15]. Theo tiêu-chuẩn “bền vững” đó, Biển Đông và nhất là Vịnh Bắc-Việt - nay hiện ra mai mất đi - đều không thể nào mang ra so-sánh được.

Theo các nhà địa-chất, lúc xưa trái đất[16] chỉ lớn bằng 4/5 thể-tích ngày nay. Các lục-địa dính chùm vào với nhau thành khối đại lục-địa Pangea. Cách nay 340 triệu năm, ở khu-vực phía Đông gần xích-đạo (sau này thành vùng Đông-Nam-Á) xuất-hiện một cái hồ chứa nước h́nh tam-giác đều mỗi cạnh chừng vài trăm cây số.

Vào khoảng 240 triệu năm trước, khi Pangea bắt đầu bành-trướng, các lục-địa tách rời nhau và trái đất lớn dần. Kích-thước “hồ nước” tam-giác đủ lớn và đủ sâu để làm cho lớp vỏ trái đất dưới đáy của nó mỏng dần và giăn nở theo với đà bành-trướng của các lục-địa. Do nhiều yếu-tố ngẫu-nhiên phù-hợp làm thay đổi cấu-trúc của lớp vỏ trái đất chỗ đó thành vỏ đại-dương mà sau này “hồ nước” trở thành Biển Đông[17].

Lúc mới thành-h́nh, biền này nằm ở phía Bắc khu đất h́nh chữ “S nằm ngang” của Việt-Nam.

 

 

 

Hinh 8. Trước đây chỉ Trái đất chỉ có một Đại lục-địa Pangea duy nhất bao quanh bởi biển cả. Khoảng 220 triệu năm trước, Pangea bành-trướng, dần dần các lục-địa tách rời nhau. Lưu- ư vị-trí di-chuyển của Biển Đông trong quá-khứ, đă thay đổi qua lại giữa Bắc và Nam Bán-Cầu.

 

 

H́nh 9. Vỏ Trái Đất mở rộng, đáy đại-dương giăn nở 

 

Theo các họa-đồ và tài-liệu của Cục Địa-Chất Việt-Nam[18] chúng ta h́nh-dung sự diễn-tiến h́nh-thành của Biển Đông như sau:

- Cách nay 240 triệu năm, từ h́nh tam-giác đều, hồ nước biến h́nh-thành một lá cờ đuôi nheo dài hàng ngàn cây-số. Phía cán cờ nối thẳng từ Đài-Loan tới Hoàng-Sa. Cạnh đuôi nheo chạy rất gần bờ biển Miền Trung Việt-Nam kéo dài tới khu Cù-lao Thu.

- Khoảng 220 triệu năm đến 80 triệu năm trước, h́nh-dạng cờ đuôi nheo biến-dạng thật nhanh. Biển Đông đă kéo dài hơn hai ngàn cây-số, xuống tận ngoài khơi Singapore. Trong khi đó biển Malacca đang chiếm vùng Bangkok đến Singapore cứ nhỏ dần.

- Cách nay 37 triệu năm, Biển Đông bành-trướng khá mạnh[19]. Diện-tích vào khoảng chừng 70% diện-tích hiện-thời. Sau đó mấy chục năm, Biển Đông đă thu-hút luôn cả Biển Malacca để nhập vào một Biển lớn. Vẫn chưa thấy xuất-hiện h́nh-dạng của Vịnh Bắc-Việt v́ đáy biển ở đó chưa giăn mỏng và nước chưa tràn vào.

 

H́nh 10. Biển Đông lúc mới thành h́nh

 

Tiểu lục-địa Ấn-Độ, rồi tiểu lục-địa Úc-Đại-Lợi sau khi tách ra, trôi về hướng Đông-Bắc. Khi tiểu lục-địa Ấn-Độ đụng vào lục-địa Á-Âu tạo ra dăy núi “trẻ” Hi-Mă-Lạp-Sơn, nó cũng làm vùng đất Việt-Nam xoay chuyển dần sang hướng Bắc-Nam (chữ S đứng thẳng). Biển lúc này chuyển từ từ sang phía Đông của Việt-Nam.

 

H́nh 11.H́nh-ảnh Biển Đông 220 triệu năm trước 

 

H́nh 12. H́nh-ảnh Biển Đông 140 triệu năm trước

 

1.7 - Khai-sinh của Vịnh Bắc-Việt

Ngày khai-sinh của Vịnh Bắc-Việt được Viện Địa-Chất và Khoáng-Sản thuộc Cục Địa-Chất Việt-Nam ước-lượng vào khoảng 11 triệu năm. Đáy biển giăn mỏng, ch́m xuống và vịnh có đôi khi ngập nước. Bờ Vịnh đạt tới h́nh-thể gần tương-tự như ta thấy ngày nay. Bản-đồ địa-chất có ư ghi cả chiều sâu đáy biển phía Tây của Hoàng-Sa (gần cửa Vịnh) là 200m. Cả Biển Đông và Vịnh Bắc-Việt vẫn c̣n tiếp-tục bành-trướng.

Ta biết rằng mực nước đại-dương tăng giảm theo nhiệt-độ trái đất. Mực nước này cạn trong thời-đại Băng Đá[20] và dâng cao khi băng-đá trên núi cao và hai cực tan ră. Trong khoảng 11 triệu năm qua, Vịnh Bắc-Việt đă nhiều lần khô cạn như một cánh đồng-bằng trũng.

 

 

H́nh 13. Mực nước biền tăng giảm trong thời-gian qua

 

Chính do sự trôi giạt phức-tạp của các lục-địa (kể cả lục-địa Á-Âu) mà khu-vực-Việt-Nam /Biển Đông có lúc đă ở Bắc Bán-Cầu, lại chuyển dần xuống xích-đạo. Có giai-đoạn Việt-Nam trôi xuống Nam Bán-Cầu gần vị-trí Úc-Đại-Lợi hiện thời, rồi chuyển-động ngược lại. Và ngày nay, người ta lại thấy nó hiện-diện trở lại tại Bắc Bán-Cầu.

Trong giai-đoạn h́nh-thành Biển Đông, một vùng biển-hồ nữa cũng xuất-hiện tại khu-vực phía Tây của Tây-nguyên. Biển này nằm vắt qua cả Lào, Cambodge và Thái-Lan, dần dần xa rời trung-bộ Đông-Dương di-chuyển về hướng Mă-Lai. Sau cùng biển này bị Biển Đông thu-hút.thành Biển Malacca như ta thấy hiện nay.

 

H́nh 14. H́nh-ảnh Biển Đông 80 triệu năm trước

 

H́nh 15. Sự h́nh-thành Vịnh Bấc-Việt

 

1.8 – H́nh-thể Vịnh Bắc-Việt hôm nay

Như đă tŕnh-bày ở trên, Vịnh Bắc-Việt trong quá-khứ đă trải qua nhiều giai-đoạn địa-chất. Có khi Vịnh ngập nước biển, có khi lại bị khô cạn. Khi vịnh cạn nước, nó không c̣n mang danh-hiệu của một vịnh biển nữa.

Ngày nay xem bản-đồ, chúng ta có thể tưởng-tượng Vịnh Bắc-Việt như một phần h́nh vành khăn tương-tối đều-đặn, rộng trung-b́nh chừng 150 Hải-lư. Trung-tâm vành khăn này nằm trên đảo Hải-Nam. B́a trong là bờ biển phía Tây của Đảo Hải-Nam. B́a ngoài vành khăn ấy là bờ biển vùng Bắc-Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-Tây của Trung-Hoa.

Tuy vậy trong khoảng 2,000 năm qua, nhân-loại đă h́nh-dung Vịnh này qua nhiều h́nh-dạng và định vị-trí của nó với nhiều sự dị-biệt. Nhiều bản-đồ được vẽ ra với những h́nh-thể không những kỳ-lạ mà vị-trí Vịnh Bắc-Việt được mô-tả cũng khác xa với thực-tế.

 

1.9 - Signus Magnus-Vịnh Bắc-Việt - thuộc Ấn-Độ-Dương?

Vào thời thượng-cổ sang trung-cổ, không có một vùng biển nào của Á-Đông nổi tiếng trong giới thượng-lưu cũng như thương-mại Âu-Châu bằng Vịnh Bắc-Việt.

Một thế-kỷ sau Tây-lịch, học-giả uy-thế Ptolemy vẽ bản-đồ thế-giới, ghi-nhận những địa-danh của "bán-đảo Vàng" Mă-lai/ Đông-Dương, Biển Đông với Vịnh Bắc-Việt. Tận cùng về phía Đông của Ấn-Độ-Dương, Ông chú-giải chi-tiết và vẽ hải-đồ hàng-hải giao-thương với một Hải-cảng thuộc Giao-Chỉ, được ghi rơ rệt là Cattigara[21]. toạ-độ 177 độ Đông kinh-tuyến, 8 độ 30' Nam vĩ-tuyến[22].

Một chuyện hăn-hữu mang tính-chất lịch-sử đă xảy ra. Đó là chuyện những bản-đồ Ptolemy được các học-giả Ả-Rập sử-dụng và nỗ-lực phổ-biến khắp nơi suốt thời-gian hơn 1,200 năm. Người ta tin-tưởng vào công-tŕnh của Ptolemy đến độ một số sai-lầm trong tác-phẩm của Ông c̣n tồn-tại cho đến cuối thế-kỷ thứ 18.[23] Trong những sai lầm đó, quan-trọng nhất là những yếu-tố địa-lư căn-bản của Vịnh Bắc-Việt bị nhiều nhà hàng-hải và cả một sổ nhà địa-lư lừng danh lập lại một cách lệch lạc đến 1700 năm sau.

 

 

H́nh 16. Biển Đông với hải-cảng chính Cattigara vẽ theo bản-đồ Ptolemy.[24]

 

Theo Ptolemy, Vịnh Biển Lớn (Signus Magnus - chỉ Vịnh Bắc-Việt) là một phần của biển Ấn-Độ. Hải-cảng chính của Vịnh này là Cattigara nằm bên bờ phía Đông của Ấn-Độ-Dương cạnh hai con sông lớn. Tài-liệu của Trường Viễn-Đông Bác-Cổ phỏng-định vị-trí hải-cảng Cattigara nằm trong khu-vực Quảng-Yên, Hồng-Gai[25].

V́ nhận ra rằng Vịnh Bắc-Việt không thể nằm về phía Tây của Việt-Nam, một nhà họa-đồ Pháp vào thế-kỷ 17 đă phân-giải sự sai-nhầm về h́nh-thể và vị-trí khu-vực Đông-Dương bằng một bản-đồ chính-xác hơn mà chúng tôi xin tŕnh-bày nơi đây. Đặc-biệt tác-giả vô-danh này c̣n ghi rất chính-xác là Vịnh Bắc-Việt (Grand Golfe/Cignus Magnus) không nằm trong Ấn-Độ-Dương mà thuộc vào Biển Đông ( Ocean Oriental[26])

 

H́nh 17. Họa-đồ Pháp phân-giải sự nhầm-lẫn về vị-trí và h́nh-thể Vịnh Bắc-Việt của các bản-đồ cổ Ptolemy.

 

1.10 - Vịnh Bắc-Việt h́nh Tam-giác?

Vào giai-đoạn kỹ-thuật hàng-hải phát-triển, các nước Âu-Châu giương buồm đi buôn bán và đưa quân đi chiếm đất khắp nơi. Một số bản-đồ liên-hệ với Vịnh Bắc-Việt căn-cứ vào những quan-trắc mới được vẽ lại. Rất nhiều hải-đồ khác lại sao đi, chép lại lẫn nhau. Nói chung, họ vẽ Vịnh Bắc-Việt như một cái h́nh tam-giác hay h́nh lá cờ đuôi nheo. Mũi nhọn của Vịnh hướng về kinh-đô Thăng-Long, mà họ ghi bằng những chữ phiên-âm từ địa-danh Kẻ-Chợ, Đông-Kinh.

H́nh 18. Vịnh Bắc-Việt h́nh Tam-giác trên một bản-đồ Tây-phương vào thế-kỷ 17 [27] Hải-Nam được vẽ rất nhỏ.

 

Trong những tấm bản-đồ thế-kỷ 17 quen-thuộc, người Việt-Nam nhận thấy trong sách của Linh-Mục Alexandre de Rhodes có vẽ rô ràng Vịnh Bắc-Việt, nhưng bờ biển lơm sâu vào tới gần Kẻ Chợ hay Đông-Kinh (Kecho/Kecio, Tumkin) tc Hà-Nội.[28] Đảo Hải-Nam được mô-tả rất nhỏ.

H́nh 19.  Trong Bản-đồ “ Đàng Trong và Đàng Ngoài” của Linh-Mục Alexander de Rhodes, Vịnh Bắc-Việt được vẽ nhọn như một lưỡi kiếm thọc sâu vào gần thủ-đô Hà-Nội.

 

H́nh 20. Vịnh Bắc-Việt với một h́nh-dạng lạ lùng thấy trên hải-đồ Francisco Rodrigues[29]. Tác-giả lại c̣n cung-cấp đầy đủ phương-vị-độ cho việc hải-hành !?.

 

Lại có cả những bàn-đồ vẽ Vịnh Bắc-Việt như một h́nh b́nh-hành, chiều dài gấp hai ba lần chiều ngang. C̣n hơn thế nữa, có hải-đồ mô-tả h́nh-thể Vịnh một cách thật là kỳ-quặc, có khi giống như củ khoai hay khúc sắn. Sưu-tầm những bản-đồ cổ loại này là một thích-thú lớn đáng kể.

 

 1.11 - Vịnh Bắc-Việt trên Bản-đồ Nhật-Bản

Nhật-Bản là nước đầu-tiên ở Á-Đông vẽ bản-đồ theo lối Tây-phương. Năm 1645, một tấm bản-đồ loại mới đó được ấn-hành mang tên Bankoku Sozu (Bản-đồ Thế-giới Tổng-Quát). Một tấm nữa mang tên Shoho, tuy có lời chú-giải bằng Nhật-ngữ, nhưng nó chính là bản sao của địa-đồ Matteo Ricci thực-hiện tại Trung-Hoa vào cuối thế-kỷ 16.

 

 

H́nh 21. - Vịnh Bắc-Việt với h́nh-thể tam-giác được vẽ trên một tấm b́nh-phong ở Nhật-Bản [30] (thế-kỷ 17)

 

Bản-đồ Nhật-Bản thời đó thường căn cứ vào tài-liệu của những người Đức và người Ḥa-Lan như Ortelius, Mercator v.v… Do đó, Vịnh Bắc-Việt đồng loạt, được họ mô-tả bằng h́nh một tam-giác. Sang đến đầu thế-kỷ 19, việc sao chép bản-đồ cổ như vậy c̣n tiếp-tục cho đến khi những bản-đồ này được thay-thế bởi các bản-đồ mang danh “Thế-giới Phật-tử và Tam-giáo”. H́nh-thể mới của Vịnh Bắc-Việt dần-dần được điều-chỉnh cho thêm phần chính-xác, đạt được tiêu-chuẩn hải-hành.

Chúng tôi xin trích-sao một góc nhỏ của tấm bản-đồ lớn “Emboudai Zu Tsuketari Knee”, lấy trong tập “Buddhist Maps of the World” (with an Illustration of the Sun), Zont, ấn-hành bằng mộc-bản năm 1828. Theo đó, ta thấy kỹ-thuật họa-đồ của người Nhật-Bản đă tiến-bộ vượt bực.

 

 

H́nh 22. Bản-đồ Nhật-Bản “Emboudai Zu Tsuketari Knee” được vẽ khá chính-xác

 

1.12 - Huyền-thoại về hải-cảng Vịnh Bắc-Việt

Trước khi Trung-Hoa phát-triển hàng-hải vào thế-kỷ thứ 5, hải-cảng sầm-uất nhất của Biển Đông nằm trong Vịnh Bắc-Việt vùng Vân-Đồn, Ḥn-gay, Hải-pḥng mà các nhà hàng-hải quốc-tế thường gọi là Cattigara. Tên này có thể là phiên-âm của một trong các địa-danh thời cổ của nước ta như Giao-Chỉ-Cauchi, Kẻ Chợ-Kesho hay Cửa Gay-Ḥn Gay/Hồng Gai.

Sau cuộc viễn-chinh của Alexandre Đại-đế (336-323 Trước Tây-lịch- TTL.) sang Ấn-Độ, nhiều giao-tiếp đă xảy ra giữa Âu-Châu và Á-Châu. T đó, người Hy-Lạp biết thêm nhiều sinh-hoạt của người Á-Châu. Eratosthene (275-195 TTL) viết sách Geographia, Ptolemy (khoảng 100-170) phát-triển môn địa-lư, viết sách và h́nh-dung ra một bản-đồ thế-giới[31] mà tận-cùng về phía Đông-Đông-Nam là bán-đảo Vàng Chersonese và hải-cảng Kattigara (kinh-độ 117 độ Đông, vĩ-độ 8 độ Nam). Kinh-tuyến gốc được lấy từ đảo Ferro - (Islands of the Blest- quần-đảo Canary). Nhiều người cho rằng bán-đảo Vàng là Đông-Dương và Kattigara (hay Cattigara) chỉ Kẻ Chợ (Kesho), Long-Biên (Lugin) hay Hà-Nội ngày nay.

Riêng về từ-ngữ hàng-hải, ta có thể hiểu chữ Cattigara theo như nghĩa người Bắc-Âu: Kati là Tàu thuyền, Gata là hải-đạo.? Như vậy Kattigara có nghĩa là chỗ hải-cảng mà tàu thuyền hải-hành tới.

Ông B́nh-Nguyên-Lộc không thỏa-măn với vị-trí ước-đoán cho rằng Kattigara nằm trong vùng Kẻ Chợ Hà-Nội, mà nghĩ rằng Kattigara có thể là Kẻ Thị Gay, tức thành-phố Ghe thuyền. Ông suy ra tên Kattigara chính là địa-danh của thương-cảng Ḥn-Gay như ta vẫn gọi ngày nay?

Việc xác-định xem thương-cảng Kattigara ở đâu vẫn chưa thực-hiện được. Theo ư một vài nhà nghiên-cứu, khi biết đúng vị-trí, những cuộc khai-quật chắc chắn sẽ mang lại thêm nhiều hiểu biết mới và giúp chúng ta trả lời được nhiều câu hỏi chưa có giải-đáp về thành-quả hàng-hải và thương-mại của người cổ Việt.

Tác-giả cuốn sách "Ancient India as Described by Ptolemy" là J.W.MacGrindle, cũng đồng-ư Kattigara là Hà-nội. Nơi trang 9, lời tác-giả ghi-chú: "Trung-Hoa trong gần 1,000 năm đă được biết như là quốc-gia nằm trong nội-địa Á-Châu (inner Asia)". Tại trang 26, ông viết: "...với lư-thuyết rằng Kattigara, điểm xa nhất về phía Đông tới được bằng đường biển, phải nằm gần hay trên cùng kinh-tuyến với nước Tàu, điểm xa nhất đi đến được qua đất liền[32]."

Người Âu-Châu thời đó, khi nghĩ đến Đông-phương hàng-hải là nghĩ đến vùng đất quê-hương chúng ta nhiều của cải, đầy vàng bạc châu báu, và cửa biển chính thông-thương ở Vịnh Bắc-Việt. Từ trước thời Bắc-thuộc, lưu-vực sông Hồng, sông Mă đă là những trung-tâm hàng-hải cùng thương-mại phồn-thịnh, hàng-hoá đi khắp nơi và có nhiều mối liên-lạc với Tây-phương. Sự giao-thương này chắc chắn sâu-đậm đến mức-độ tất cả những bản-đồ thế-giới do Tây-phương ấn-hành suốt mười mấy thế-kỷ sau đó, đều cố ghi địa-danh Kattigara.

Thật lạ lùng là sau chuyến đi của Marco Polo sang Á-Đông vào thế-kỷ 13, các nhà địa-lư đă không sửa được bản-đồ cho đúng, mà cả sau khi Magellan mất mạng trên đường đi ṿng quanh thế-giới (năm 1521), tọa-độ địa-dư của Kittigara (Thăng-Long hay một hải-cảng nào trên bờ Vịnh Bắc-Việt cũng vậy) vẫn giữ nguyên như cũ.

Khi t́m được Tân Thế-giới, người Âu-Châu tưởng rằng ḿnh đă khám-phá ra được con đường hàng-hải sang Á-Châu và đinh-ninh sẽ t́m ra được cảng Kattigara của Vịnh Lớn Bắc-Việt. Địa-danh hải-cảng này do đó được tiếp-tục ghi trên lục-địa Mỹ-Châu trong nhiều thế-kỷ. Anh em nhà Columbus[33] cũng như Amerigo Vespucci và Ferdinand Magellan[34] cùng chép trong Sổ Hải-hành sự mong đợi được ghé tàu cặp bến xứ ta.

Tên America, chỉ-danh của toàn-thể lục-địa Mỹ-Châu, được đặt theo tên của nhà hàng-hải Amerigo Vespucci. Ông là người đầu tiên xác-định được “tân-thế-giới” không phải là lục-địa Á-Châu. Tuy vậy, Vespucci vẫn không giám quả-quyết hướng đi nào dẫn tới Kattigara và rất có thể, giống những người đồng-thời, Ông phỏng-đoán “Giao-chỉ” ở đâu đó rất gần vùng đất mới. H́nh-ảnh hải-cảng huyền-thoại đó không nhng đă đeo đuổi Ông mà c̣n đeo đuổi tiếp-tục những nhà hàng-hải và họa-đồ thế-giới theo sau nghề-nghiệp của Ông hàng thế-kỷ.

 

 

H́nh 23. Bản-đồ Sebastian Múnster (1540) “định-vị” hải-cảng Bắc-Việt Cattigara trên Nam-Mỹ-Châu

 

Trở lại quá-khứ để t́m hiểu, một nhà nghiên-cu hàng-hải thế-kỷ 20 đă đặt các hải-đồ thông-dụng thời đó lên trên cầu-đồ th́ thấy rằng:

- Những hải-đồ vẽ theo tài-liệu Ptolemy (hải-đồ Behaim (1492) trong trắc-nghiệm này) cho vị-trí Vịnh Bắc-Việt (và hải-cảng Cattigara) quá xa về hướng Đông, tức gần sát với Nam Mỹ-Châu.[35]

- Những hải-đồ họa h́nh Tân Thế-giới cũng sai-lệch (hải-đồ La Cosa (1500) trong trắc-nghiệm này) cho thấy bờ biển Trung và Nam-Mỹ như “muốn vươn dài” qua phía Á-Châu.

Phần lớn sự lầm-lẫn là v́ các nhà hàng-hải quá tin vào kiến-thức thời Ptolemy, do đó “vẽ phỏng chừng” Vịnh Bắc-Việt mà thôi. Có một sự trùng-hợp ở đây: khi xưa (thời Ptolemy) có nhiều người tin là vịnh biển nước ta quay ra Ấn-Độ-Dương th́ nay những nhà hàng-hải “hậu Columbus” cũng lại cho rằng “Vịnh Bắc-Việt” phải nằm đâu đó ở “Nam Mỹ” và quay ra biển Thái-B́nh-Dương.

 

 

H́nh 24. Khi đặt hai hải-đồ Behaim và La Cosa lên trên cầu-đồ người ta hiểu tại sao Vịnh Bắc-Việt đă nhiều lần được vẽ trên bờ biển Nam Mỹ-Châu (vởi hải-cảng Cattigara) trông ra Thái-B́nh-Dương.

  
Chương 2

Địa-Lư Thiên-Nhiên:

Biển, Đảo và Duyên-Hải Bắc-Việt

 

2.1 - Quang-cảnh chung Bờ biển Việt-Nam

Đường bờ biển thay đổi không ngừng. Quang-cảnh bờ Vịnh Bắc-Việt mà ta thấy hiện nay, cũng như của các nước trong khu-vực, mới được h́nh-thành cách đây khoảng 4-5 ngh́n năm, sau thời-kỳ biển tiến Flandri. Đường bờ biển trải ra trên chiều rộng hay hẹp là tùy thuộc vào độ chênh của mức thủy-triều cao và mức thủy-triều thấp ở từng địa-phương. 

 

H́nh 25. H́nh-ảnh biển Đông theo Katsushika Hokusai (1760-1849)

 

Nếu phân chia chi tiết th́ người ta có thể nhận ra ít nhất đến 11 đoạn bờ biển Việt-Nam có những đặc điểm h́nh-thái và động lực khác nhau. Tuy vậy về đại-quát theo Giáo-Sư Địa-lư Lê Bá Thảo th́ chỉ có hai kiểu bờ biển: kiểu đồng-bằng và kiểu đá gốc[36]. Ông mô-tả hai loại đó như sau:

(1) Các "xứ" đồng-bằng (các đồng-bằng cửa sông, các châu-thổ) đều có bề mặt nghiêng nhẹ về phía biển và kết thúc bằng những bờ biển bằng phẳng và thấp. Sóng, thủy-triều và các ḍng phù-sa ven bờ hàng ngày vẫn làm chúng biến đổi tuy rằng để nhận thấy được điều đó, cần phải có một thời gian dài đến một vài chục năm.

Trên bờ biển Vịnh Bắc-Việt, có một đoạn thuộc "xứ" đồng-bằng kéo dài từ nam Quảng Yên đến Quảng-Trị. Có những đường bờ bị chia cắt mạnh mẽ bởi các cửa sông h́nh phễu và các lạch triều với nhiều đảo phù-sa mà độ cao không chênh bao nhiêu so với mực nước biển. Đấy là kiểu bờ biển các châu-thổ thủy-triều của hệ-thống sông Thái B́nh ở miền Bắc và của hệ-thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ ở phía nam. Lại có kiểu đường bờ bằng phẳng và liên-tục của các châu-thổ và đồng-bằng ŕa phía nam các cửa sông, thông-thường lầy lội, có các bộ phận bị mài ṃn và bồi tụ xen kẽ. Đấy là trường hợp của cả hai châu-thổ sông Hồng và châu-thổ sông Cửu-Long.

Các khúc bờ biển bằng phẳng từ Thanh Hóa trở vào đến đèo Hải-Vân được giới hạn ở các cửa sông. Các đoạn trung gian giữa hai cửa sông là đồng-bằng thuộc nhiều nguồn gốc. Tại Vịnh Bắc-Việt, khu-vực Quảng B́nh chỉ có các cồn cát phong thành. Trong khi đó, người ta thấy ở các nơi khác là các mũi tên cát chắn những đầm phá ở bên trong (như ở Thừa Thiên), có nơi là những băi lầy sú vẹt như đoạn từ mũi Cà Mau lên đến Rạch Giá. Nói chung đặc-tính chung của bờ biển các "xứ" đồng-bằng là bằng phẳng nhung không phải v́ thế mà bờ biển trở thành đơn điệu.

(2) Bờ biển của các "xứ" núi, núi ra sát biển khúc khủyu, bị chia cắt bởi nhiều vũng, vịnh nhưng rất ít kiểu bờ vách đá gốc.

Có hai đoạn bờ biển Việt-Nam thuộc "xứ" núi: đoạn từ Móng Cái về đến Yên Lập ở Bắc Bộ và đoạn từ Đà Nẵng xuống đến mũi Dinh, kéo dài cho đến Vũng Tàu.

Toàn bộ đoạn thứ nhất thuộc tỉnh Quảng-Ninh, một tỉnh thuộc miền núi Đông Bắc. Bờ biển lởm chởm những mũi đá do có nhiều sông suối ngắn từ nội-địa chảy ra cắt qua các dẫy thềm biển (hoặc sông biển). Mặt bằng ven biển rất ít, người ta chỉ có thể thấy một không-gian tương-đối hẹp như vậy ở Tiên-Yên, nhưng mà lại chính trên bậc thềm cao của sông Phố Cũ, và ở Móng Cái, trong thực-tế cũng là một bậc thềm mài ṃn. Toàn đoạn bờ biển này nh́n ra vùng quần-đảo Bái-Tử-Long và Hạ-Long là vùng núi đồi bị ch́m ngập.

Đảo ven bờ lớn nhất là đảo Cái Bầu và xa hơn về phía Tây Nam là đảo Cát Bà, cả hai đảo này đều c̣n giữ được nhiều loài cây và thú quư hiếm. Vịnh cho tàu đậu lớn nhất và có giá-trị kinh-tế quan-trọng là vịnh Cửa Lục, nơi có cảng nước sâu duy nhất của Bắc Bộ, là cảng Cái Lân.

 

 

H́nh 26. Vùng Hồng-Gai có nhiều đảo chi-chít, nằm sát bờ

 

2.2 – Các đoạn Bờ biển Vịnh Bắc-Việt

Theo đặc-tính của địa-thế, Các tác-giả Vũ Nguyệt Minh, Lữ Đông Hà, Lê Khánh Tâm, Quỳnh Tố Thùy của cuốn sách "Nước Tôi Dân Tôi"[37], bờ biển Vịnh Bắc-Việt có thể được chia thành hai đoạn như sau:

- Đoạn Móng Cáy - Hải-Pḥng: Bờ biển hiểm trở. Trong các vịnh ven biển như vịnh Hạ-Long và vịnh Bái-Tử-Long có hàng ngàn đảo nhỏ và những đảo lớn như Cái Bầu, Cát Bà, Cái Bàn... Phong cảnh hang động và đảo ở vịnh Hạ-Long được xen như những kỳ quan ngoạn mục nhất vùng biển Đông Nam Á. Hải-Pḥng và Cái Lân là hai hải-cảng quan-trọng trong đoạn bờ biển nàỵ.

- Đoạn Hải-Pḥng - Quy Nhơn: Bờ biển hầu hết đều thấp và phẳng, Có những núi thuộc dăy Trường Sơn đâm ngang tạo thành những mũi đá nhô ra biển như mũi Sầm Sơn ở Thanh Hóa, mũi Rọn dưới chân đèo Ngang giữa Hà Tĩnh và Quảng B́nh. Cảng Cửa Ḷ là hải-cảng quan-trọng nhất

Xa hơn về phía Nam của Vịnh Bắc-Việt, địa-thế bờ biển cũng tương-tự. Mũi Chân Mây dưới chân đèo Hải-Vân, nằm giữa Thừa Thiên và Quảng Nam. Mũi Ba Làng An ở Quảng Ngăi, mũi Yến ở Quy Nhơn. Những hải-cảng quan-trọng trong đoạn bờ biển này là Đà Nẵng và Quy Nhơn.

 

2.3 - Đáy Biển của Vịnh Bắc-Việt

Đáy Biển Đông của Việt-Nam có thể chia làm 3 phần:

- Khu-vực Vịnh Bắc-Việt

- Khu-vực Biển miền Trung từ Đảo Cồn Cỏ (vĩ-tuyến 17 Bắc) xuống đến vĩ tuyến 10.30'B, tức là đến tận Phan Thiết.

- Khu-vực biển phía nam bao gồm phần c̣n lại cho đến vịnh Thái Lan.

Trong ba khu-vực biển này th́ nói chung, địa-h́nh đáy của Vịnh Bắc-Việt tuy phẳng-phiu nhất, nhưng lại có một vùng nhỏ phía cực Bắc mang nhiều sự phức tạp hơn cả. Địa-h́nh đáy biển vịnh Bắc-Việt hơi nghiêng về phía Đông Nam. Độ sâu ở trung-tâm vịnh chỉ đạt đến 70-80m. Đáy biển ở cửa vịnh sâu tới khoảng 90-100m.[38]

Đoạn từ Móng Cái đến Hải-Pḥng có hàng ngàn đảo lớn nhỏ thuộc hai vịnh Bái-Tử-Long và Hạ-Long. Lại có nhiều luồng lạch lớn nhỏ chia cắt đáy biển ra nhiều mảnh nhỏ bé. Địa-h́nh đáy biển Quảng Ninh, không bằng phẳng, độ sâu trung-b́nh là 20m. Có những lạch sâu là di-tích các ḍng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi sinh trưởng của các rạn san-hô rất đa-dạng. các ḍng chảy hiện nay nối với các lạch sâu đáy biển c̣n tạo nên hàng loạt luồng lạch và hải-cảng trên dải bờ biển khúc khủyu kín gió nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên một tiềm-năng cảng biển và giao-thông đường thủy rất lớn.

Từ nam Hải-Pḥng đến Nghệ An - Hà Tĩnh, ứng với một bờ biển phẳng; địa-h́nh thềm lục-địa tương-đối đơn giản với các dạng tích-tụ tiền châu-thổ. Bờ biển do đó, chạy thoai thoải dần từ bờ ra khơi.

Từ nam Nghệ Tĩnh xuống đến Đà Nẵng (hay cửa vịnh Bắc-Bộ), ta thấy xuất hiện các dăy đê cát ngầm chạy song song với đường bờ, kể cả các thềm đá gốc - các bensơ - trong khi ở phía ngoài khơi, các dạng địa-h́nh âm và dương xen kẽ với nhau một cách phức tạp, có lẽ liên-quan đến sự cắt chéo ngang nhau của hệ-thống đứt găy sông Hồng và hệ-thống đứt găy ngoài xa theo kinh-tuyến 109 Đông.[39]

Những bản-đồ Geomorphology vẽ đáy biển 3 chiều cho ta một cái nh́n tổng-quát. Đáy biển Vịnh Bắc-Việt ghi dấu vết các con sông thời cổ nối dài theo con sông Hồng. Các ḍng chảy hướng ra gần đảo Hải-Nam, rồi xuôi về biển Hoàng-Sa. Các túi dầu-khí mà Trung-Cộng đang khai-thác trong Vịnh Bắc-Việt và ở Hoàng-Sa nằm rất gần những con sông cổ xưa này. Có thể nói rằng dầu-khí chính là kết-quả làm việc của con sông Hồng hàng mấy chục triệu năm qua.

Một cách tổng-quát, ta có thể nói trừ những nơi lởm-chởm chi chít hải-đảo vùng Hải-Pḥng Quảng-Ninh, đáy biển Vịnh Bắc-Việt là một vùng “đồng-bằng lư-tưởng” rất lớn và phẳng-phiu. Trên lục-địa không thể nào có được một cảnh-quan tương-tự như vậy. Thiên-nhiên lại c̣n ban-phát cho vùng này một “ngọn núi - Trấn-Sơn” Bạch-Long-Vĩ, đột-nhiên nổi lên ở giữa khu-vực như cái cột cờ, cao tới gần 100 thước[40].

 

 

H́nh 27. Bản-đồ đáy biển Vịnh Bắc-Việt rất phẳng-phiu với vết tích con sông Hồng và các phụ-lưu của nó mang nước ra biển Hoàng-Sa

 

2.4 - Duyên-hải Vịnh Bắc-Viêt: nơi rộng ph́nh ra, nơi bóp hẹp lại

Quan-sát bản-đồ thế-giới trên phần lục-địa, người ta không thể t́m thấy một quốc-gia nào được sở-hữu một vùng bờ biển quan-trọng về mọi mặt, không những dài mà lại lắm tài-nguyên như Việt-Nam.

Theo giáo-sư Joseph R. Morgan của đại-học UC Berkley và luật-sư Mark J. Valencia của Viện Nghiên-Cứu Đông-Tây ở Hawaii, Việt-Nam có tới 2,828 hải-lư (tức 5,237 km) bờ biển[41]. Tỷ-lệ bờ biển nước ta so với diện-tích lănh-thổ cao hơn hầu hết các quốc-gia khác trên thế-giới. V́ thế, tâm-hồn và sinh-hoạt Việt-Nam gắn liền với biển. Joseph Buttinger ước-lượng rằng đại đa-số người Việt-Nam sống sát với biển cả trong ṿng 50 hải-lư.[42]

Kích-thước rộng hẹp của Việt-Nam có lẽ cũng nói lên một khía cạnh về tiềm-lực dân-tộc. Tại duyên-hải Vịnh Bắc-Việt, khu-vực “miền Bắc Khai-nguyên”, từ lâu tiền-nhân đă mở nước tối đa. Từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây, Bắc-Việt rộng tới 600km. Nhân-số gia-tăng đ̣i hỏi quốc-gia phải gia-tăng đất đai. Nhưng phía Bắc th́ đụng Trung-Hoa, phía Tây bị các dăy núi chận lại. Nơi hẹp nhất chính là Quảng B́nh với 50 km chiều ngang.

Vậy dân ta chỉ c̣n cách dựa vào biển phía Đông mà tiến về phương Nam để mở mang bờ cơi. Xung-lực tác-dụng của “trái bóng dân-số” được thể-hiện rơ ràng về mặt địa-lư: Việt-Nam đă kiểm-soát toàn-thể miền Trung, rồi chiếm-hữu đồng-bằng Nam-Việt. Ở đó, có nơi rộng tới 400 km.

Như quá-khứ đă chứng-minh, cả trong hiện-tại lẫn tương-lai Việt-Nam sẽ không thể nào xa cách với biển cả. Trong những giai-đoạn sinh-tử, tồn-vong của đất nước; người Việt chúng ta cũng cứ bám lấy biển. Một trong những biểu-hiện dễ thấy nhất là trên đường mở nước, tiền-nhân chúng ta đă lần từng bước men theo bờ biển để tiến tới. Cuộc Nam-Tiến chính là biểu-hiện liên-tục của một con rồng vươn dài ôm lấy Biển Đông vậy.

 

2.5 - Hệ-thống các Ḍng chảy ra Vịnh Bắc-Việt

Theo Giáo-Sư Lê Bá Thảo, sông ng̣i ở Việt-Nam về mặt h́nh-thái phụ thuộc rất nhiều vào cấu-trúc địa-chất - địa-h́nh nhưng về mặt đặc-tính của ḍng chảy th́ là do khí-hậu quyết-định. Cả hai điều-kiện đó đă dẫn tới kết-quả là Việt-Nam có một mạng lưới sông ng̣i dày đặc, có thủy-chế thay đổi rất mạnh theo mùa và theo khu-vực.

Đối với con người cũng như đối với cảnh-quan, nơi nào có sông ng̣i chảy qua th́ nơi đó có sự sống; điều đó được phản-ảnh trước hết trong bức tranh phân bố dân-cư và với các hoạt-động kinh-tế nhiều mặt đi kèm theo.

Các sông lớn và trung-b́nh của Việt-Nam đóng vai tṛ quan-trọng trong việc cung cấp nước cho những đồng-bằng và châu-thổ, nhưng chính 2170 sông nhỏ và suối có diện-tích lưu vực dưới 100 km2 (chiếm 92,55 % tổng số sông suối của cả nước) mới làm cho gần như không có bộ phận nào của lănh-thổ lại không hưởng được tác-dụng tốt lành của ḍng chảy, đặc biệt là ở miền núi và trung du.[43]. Có điều đáng ngạc nhiên – theo Nguyễn Viết Phổ [44] - là mật-độ lưới sông ở đồng-bằng Bắc-Việt không khác với vùng đồi núi, mật-độ này cao hơn so với các vùng cao nguyên.

Bản-đồ mật-độ sông suối Việt-Nam cho thấy phần lớn lănh-thổ có mật-độ trung-b́nh từ 0,5 đến 1km trong mỗi km2. Mật-độ lưới sông đạt chỉ-số cao nhất lên đến 2-4 km/km2 ở Đông-Nam châu-thổ sông Hồng và sông Thái B́nh cũng như ở đồng-bằng sông Cửu-Long do nhu-cầu thoát nước rất lớn. Mật-độ này cũng cao (1,5 đến 2 km/km2) ở các khu-vực trung-tâm mưa lớn như ở Móng Cái, khối Ṿm sông Chảy, bắc Hoàng Liên Sơn, khu-vực đèo Ngang, đèo Hải-Vân v.v..[45]

 

2.6 - Sông Hồng, một con Sông vĩ-đại Thời xưa

Nguồn nước lớn nhất đổ vào Vịnh Bắc-Việt là do Sông Hồng.

Theo tài-liệu của Cục Địa-Chất Việt-Nam[46] cách nay 37 triệu năm, Biển Đông được bao bọc ở phía Nam bởi khối đất Sumatra, phía Đông bởi khối Kalimantan, Philipin; phía Bắc bởi khối Dương-Tử, phía Tây bởi Việt-Nam nằm quá nửa trên khối đất Indonisia.

Sông Hồng lúc đó chảy theo một nếp gấp địa-chất rất dài. Hữu-ngạn là các khối đất Tây-Tạng, Sơn-Thái, Indosinia, Tả-ngạn là khối Dương-Tử và Cathaysia. Gần như tất cả nước mưa của toàn-thể khu-vực Đông-Á, Nam-Á, và có thể cả nước mưa khắp Trung-Á cũng đổ về Hồng-Hà mà ra Biển Đông. Lưu-lượng của Sông Hồng thời đó có thể nhiều lần lớn hơn lưu-lượng các sông Nile, Amazone, Dương-Tử. Sông Hồng cùng nhiều phụ-lưu của nó với các cửa sông thật rộng lớn, ước-lượng có đến hàng chục cây-số.

H́nh 28. Hàng chục triệu năm trước, Sông Hồng là một đại trường-giang khởi-nguyên từ Trung-Á, Tây-Tạng, qua Vịnh Bắc-Việt “khô-cạn”, chạy dài ra tận Hoàng-Sa.

 

Từ trên cái "mái nhà của trái-đất", nguồn nước hùng-vĩ đă mang ra Biển Đông những khối-lượng phù-sa khổng-lồ, tạo nhiều lớp kết tầng thủy-tra-thạch tại Hoàng-Sa. Rồi ḍng sông chính của miền Bắc nước ta bị thu nhỏ khi địa-chấn xảy ra, nâng cao khu Vân-Nam cắt ngắn thượng-nguồn Hồng-Hà lại như ta thấy hiện nay. Nguồn nước từ đó bắt đầu chảy sang phía Dương-Tử-Giang làm con sông vùng Hoa-Nam thêm to lớn.[47]

Cho dù đă bị cướp mất cái kỷ-lục “oai-dũng” ngày xưa, Sông Hồng vẫn tiếp-tục công-việc cần-cù và nhẫn-nại của nó trong việc bồi-đắp vùng châu-thổ Bắc-Việt. Thống-kê cho thấy về công-tŕnh này, Sông Hồng luôn-luôn vượt Sông Cửu-Long[48] Con sông lớn nhất Miền Bắc đó bắt nguồn từ dăy núi Ngụy Sơn, gần hồ Đại Lư (Vân Nam - Trung Quốc) chảy vào nước ta ở vùng Hà Khẩu (Lào Cai). Lưu-lượng của sông rất lớn (từ 700m3/giây mùa khô, tăng đến 28,000m3/giây vào mùa nước lũ)[49]. Có khi nước ngọt được t́m thấy ngoài biển xa cửa sông tới một khoảng cách 30 km.

 Hàng năm Sông Hồng chuyển tải một khối lượng phù-sa vĩ-đại tới 130 triệu tấn, lấp dần vịnh Bắc-Việt để tạo nên một đồng-bằng rộng lớn, màu mỡ.

Tài-liệu “Dự án Quản lư Tài nguyên Nước Lưu vực sông Hồng[50] ghi nhận trong trận lụt kinh hồn năm 1971, lưu-lượng đạt kỷ-lục 38,000m3/giây gây cho gần 500 người chết [51]. Thiên-tai “nước” này khủng-khiếp hơn “lửa” nhiều![52] Việc trị-thủy Sông Hồng qua hàng ngh́n năm vẫn c̣n là vấn-đề sinh-tử, cần phải được duyệt xét để t́m ra giải-pháp hừu-hiệu hơn.

H́nh 29. Một Giả-thuyết của Leloup Philippe Hervé[53]: Khi địa-chấn xảy ra, khu Vân-Nam được nâng cao cắt ngắn thượng-nguồn Hồng-Hà

 

Thủ-đô Hànội, “chốn cũ Thăng-Long ngàn năm văn-vật” nằm trên hữu-ngạn sông Hồng cách Vịnh Bắc-Việt chừng 85 hải-lư. Về xác xuất xảy ra động đất tại Hà Nội, các nhà nghiên-cứu cho rằng, Hà Nội nằm trên khu-vực đứt găy sông Hồng, nơi đang ở giai-đoạn hoạt-động mạnh nên trong tương-lai, khu-vực Hà Nội rất có thể sẽ phải hứng chịu một trận động đất mạnh tới 5,3 độ Richter. V́ ḷng đất được cấu-tạo yếu, cộng với sự phát-triển mạnh của các khu dân cư và trung-tâm kỹ nghệ, lại thêm sự khai-thác nước ngầm bừa băi, mức độ tàn phá của động đất tại Hà Nội, nếu xảy ra sẽ rất lớn.

 

2.7 – Hệ-thống Sông Thái-B́nh

Đóng góp vào công-tŕnh xây đắp đồng-bằng Bắc-Việt, hệ-thống sông Thái B́nh cũng đă làm việc đáng kể.

Sông Thái B́nh hợp bởi các Sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam tại Phả Lại. Nguồn nước chảy qua tỉnh Hải-Dương rồi đổ ra cửa chính tại tỉnh Thái B́nh. Các phân lưu của hệ thống này c̣n được gọi là Lục Đầu Giang, tất cả đều nằm về phía tả ngạn sông Thái B́nh:

- Sông Văn Úc, một đoạn tên sông Hương, một đoạn tên sông Rang, đổ ra cửa Văn Úc.

- Sông Lạch Tray, nối sông Văn Úc chảy ngang qua Hải-Pḥng, ra biển bằng cửa Rạch Traỵ

- Sông Kinh Thầy, thoát lưu của sông Thái B́nh từ Phả Lại, đến

Thạch Liên chia thêm một nhánh nhỏ là sông Kinh Môn, hai nhánh này nhập lại trước khi đổ ra biển ở cửa Cấm.

- Phân lưu sau cùng của sông Thái B́nh là sông Đà Bạch, tức Bạch Đằng Giang, cửa sông là một vùng đồng lầy rộng lớn..[54]

Sông Bạch Đằng là con sông chiến-lược nổi tiếng nhất trong lịch-sử Việt Nam, đó là nơi dân-tộc Việt-Nam đă 3 lần đánh bại quân xâm-lược phương Bắc. Trong đó, chiến-thắng thứ ba đánh thắng quân Nguyên Mông được cả thế-giới biết đến. Nhiều cọc gỗ nhọn đă xuyên thủng tàu giặc, sau 700 năm c̣n được t́m thấy tại đây.

Xưa kia, núi Voi và núi Đồ Sơn là những cù lao ở giữa biển. Đất phù-sa của nhóm sông Thái-B́nh, khi ăn lan măi ra biển, đă làm những cù lao này dính vào đất liền, trở thành những ngọn núi.

 

2.8 - Đồng-bằng Bắc-Việt

Sông ng̣i xứ Bắc nước ta rất nhiều, tất cả đều chảy vào Biển Đông, chỉ trừ có một con sông là Kỳ-Cùng chảy ngược về phía Trung-Hoa[[55]. Tổng-số chiều dài các con sông là 41,000 km với lưu-lượng chừng 300 tỷ m3 nước. Phụ vào đó là 3.100 km kinh rạch nhân-tạo.

Đứng chung trong bảng thống kê lớn như vậy, sông Hồng chỉ chiếm có 510 km chảy trên lănh-thổ Việt-Nam, (trong tổng-số chiều dài Vân-Nam - Biển Đông 1.149 km của nó.) Tuy vậy, đối với dân ta, con sông này chính là con sông khởi-nguyên lịch-sử của dân-tộc.

Đồng-bằng sông Hồng (ĐBSH) rộng vào khoảng 15,000km2. Địa-bàn này là nơi cư-trú của người Việt cổ, cũng là nơi h́nh-thành nền văn-minh lúa nước. Đây c̣n là vựa lúa lớn thứ hai của đất nước gồm các tỉnh, thành: Hà Nội, Hải-Pḥng, Thái B́nh, Nam-định, Hải-Dương, Hưng Yên, Ninh B́nh, Bắc Ninh, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Hà Tây. Tính chi-tiết hơn, trong diện-tích 1,479,466 ha của châu-thổ, số đất đang sử-dụng là 1,032,000 ha (82,46%) bao gồm hầu hết là đất nông-nghiệp với 822,182 ha (chiếm 55,67%). Tuy nhỏ hơn vùng đồng-bằng Cửu-Long, nhưng theo nhiều nhà canh-nông, vùng đất phù-sa sông Hồng thuộc loại màu mỡ nhất của đất nước ta.

Nằm trong khu-vực nhiệt-đới gió mùa, thiên-nhiên lại ban tặng cho ĐBSH thêm một thứ đặc sản, đó là mùa đông. Cái lạnh mùa đông là điều-kiện thuận-lợi cho cây trái vùng hàn đới, ôn đới sinh sôi nảy nở. Chính v́ thế động, thực-vật ở đây rất phong-phú.

Trong ṿng hai thập-niên qua, môi-trường sinh-hoạt của nông-dân miền Bắc khá hơn đôi chút. Tuy vậy, cho dù nông-thôn đă được điện-lực-hoá nhưng hiện-thời t́nh-trạng vệ-sinh toàn vùng rất tồi tệ. Tại miền quê, hầu hết ao hồ bị ô-nhiễm nặng. Ở thành-phố, t́nh-trạng cũng không khá hơn, sông Tô-Lịch[56] nay là một con rạch nước tù hăm, mang nhiều mầm bệnh tật.

 

 

H́nh 30. Các Cửa Sông chính vùng Châu-thổ Miền Bắc

 

Người ta ước-lượng rằng hàng năm đất bồi thêm lấn biển từ 50 đến 100 thước. Như thế mỗi năm khu tân-bồi được nh́n thấy không có bao nhiêu, nhưng sau một thiên-kỷ th́ đất sẽ trườn ra ngoài Biển Đông 4, 5 hay 7 chục cây-số. Trường hợp mực nước biển lại theo đúng chu-kỳ phỏng-định mà rút xuống, vùng đất mới sẽ lớn nhanh theo gia-tốc. Vào những năm 3000, 4000; Vịnh biển Bắc-Phần sẽ nhỏ hẹp lại và diện-tích vùng ĐBSH rất có thể tăng lên gấp rưỡi.

Những băi Tự-nhiên, những đầm Nhất Dạ, các cửa Đại-Ác, cửa Thần-Phù trong lịch-sử năm xưa ở sát biển, hiện giờ đă lùi sâu vào nội-địa. Các bạn quê sát biển di-cư 1954, ngày nay hồi-hương không c̣n nghe được tiếng biển gầm v́ nhiều làng xóm mới mọc lên chắn ngang những con đường ra ngoài băi biển.

 

2.9 - Hải-Cảng Vịnh Bắc-Việt

            Chính-sử Việt-Nam ghi nhận Quan Lạng như hải-cảng nước ta thời tư-chủ. Vào thế kỷ 12, Quan Lạn thuộc huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ngày nay, chính là thương cảng đầu tiên của Việt Nam do triều Lư xây dựng.  Đảo Quan Lạn vẫn c̣n giữ được một vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ không kém một ḥn đảo nào trong quần thể thắng cảnh Hạ Long. Tại đây, hằng năm c̣n diễn ra lễ tế vua Lư Anh Tông và lễ hội chèo thuyền vào tháng năm, tháng sáu âm lịch.

            Ngày nay, cảng nước ta xây-dựng khắp nơi. Hệ-thống cảng biển bao gồm phần lớn là các cảng cá, phân bố trên địa-bàn của 111 huyện, thành-phố hoặc thị xă - thị trấn ven biển. Các cảng lớn như Hải-Pḥng, Đà Nẵng, Vũng Tàu... có nhiều chức năng nhưng cũng có cảng cá phụ thuộc.

Vào thời điểm năm 2010, Việt Nam dự-trù sử-dụng 114 cảng biển được chia thành 8 nhóm, phân bố dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Kiên Giang. Mỗi nhóm cảng là một hệ thống cảng nhỏ, có sự hỗ trợ liên-hoàn với nhau.

 Riêng nhóm cảng Bắc-Việt, chỉ tính từ Quảng-Ninh đến Ninh B́nh đă gồm tới 27 cảng lớn nhỏ, trong đó các cảng Hải-Pḥng, Cửa Ông và Cái Lân đóng vai tṛ quan-trọng nhất. Tại khu-vực Hải-Pḥng c̣n có một số cảng mới như Đ́nh Vũ, Bạch Đằng ra đời nhằm phục-vụ các khu công-nghiệp. Cái Lân được xác-định là cảng nước sâu trọng-điểm, cho phép đón nhận tàu đến 50,000 DWT[57], với công-suất 2 triệu tấn/năm. Ngoài các cảng than ở Cẩm Phả có công-suất 5 triệu tấn/năm, trong tương-lai Việt-Nam sẽ xây-dựng thêm cảng chuyên dùng cho nhà máy thép cũng có công-suất 5 triệu tấn/năm.

 

H́nh 31. Hệ-thống Cảng Biển chính miền Bắc-Việt-Nam

 

Nhóm cảng Bắc Trung-phần có nhiệm-vụ chính phục-vụ phát-triển kinh-tế 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, đồng thời thu hút hàng quá cảnh của Thái Lan và Lào, với cảng Cửa Ḷ là cảng trung-tâm. Vào năm 2000 lượng hàng thông qua cảng đạt 1,5 - 1,8 triệu tấn. Dự-tính sẽ tăng lên 2,5 - 3 triệu tấn vào năm 2010[58].

 

 

Amount of cargo to he Handled by port groups (million tonnes)

1. Group of the ports of Hai Phong and Cai Lan and northern ports

25 ports, including 13 general ports (two of which are major ports) and 12 specialized ports

By 2003 

21-24 million tonnes

By 2010

 57-69 million tonnes

2. Group of ports in the northern part of central region (Thanh Hoa, Nghe An and Ha Tinh)

Eight ports, including five general ports (three main ports) and three specialised ports

3-4

million tonnes

23-26 million tonnes

H́nh 32. Khả-năng 2 hệ-thống cảng biển Vịnh Bắc-Việt.

 

Từ trước đến giờ, nước ta chỉ có 2 cảng lớn cỡ quốc-tế là Hải-pḥng và Sài-g̣n. Để phát-triển kinh-tế, Việt-Nam đang cải-tiến và xây-cất thêm nhiều cảng biển trong ṿng 10 năm tới. Từ Bắc vào Nam, ta có thể kể các cảng: Cái Lân (Quảng-Ninh) Cửa Ḷ (Nghệ An) Đà Nẵng, Qui Nhơn, Dung Quát (Quảng Ngăi)...

Nh́n xa về tương-lai, các cảng biển lớn nhất Việt-Nam sẽ phải xây-dựng ở miền Trung v́ khu-vực này có nhiều vịnh tốt, kín gió lại không bị phù-sa bồi lấp. Ưu-thế hơn tất cả các cảng khác là chúng nằm sát hải-lộ giao-thương. Trong khi các cảng của Vịnh Bắc-Việt như Hải Pḥng cách hải-lộ đó 18 giờ hải-hành hay lâu hơn nữa, các cảng miền Trung chỉ cách đó vài ba tiếng đồng-hồ. Đặc-biệt Vịnh Cam Ranh (1 giờ tàu biển là tới) được xếp vào loại một trong ba hải cảng có điều-kiện tự nhiên tốt nhất thế giới, với diện tích vùng vịnh kín tới 60 km2 và độ sâu trung b́nh 18 - 20m nước, xung quanh có núi bao bọc làm cho vùng biển luôn lặng gió.

 

2.10 - Hệ-thống Chuyển-vận Đường Sông

Theo tài-liệu nghiên-cứu đầy đủ chi-tiết nhất, Việt-Nam hiện có 2,360 con sông (+/- 10) với tổng-số chiều dài lên đến 41,900 km (+/- 100).[59]

Chuyển-vận đường sông Việt-Nam được xếp vào loại lớn nhất thế-giới. Hệ-thống dài khoảng 9,000 đến 10,000 km, kể cả các kênh rạch. Hoạt-động này phát-triển mạnh nhất ở đồng-bằng sông Hồng và sông Cửu-Long do mức nước đủ sâu để thuyền bè, canô và xà lan có thể đi lại quanh năm.[60].

Các luồng đường sông chính ở đồng-bằng sông Hồng thường bắt đầu từ cảng Hải-Pḥng về Hà Nội theo hai tuyến: Hải-Pḥng - Hà Nội qua sông Đuống, có sử-dụng nhiều nhánh của sông Thái B́nh dài 150 km, và Hải-Pḥng - Hà Nội theo sông Luộc qua Quư Cao, dài hơn tuyến trên 65 km nhưng dễ đi hơn v́ ít băi cạn. 

H́nh 33. Hệ-thống Đường Sông, Đường Bộ ở Miền Bắc VN

 

Ngoài ra, trục Cẩm Phả - Hạ Long, Phả Lại - Hà Bắc dài 459,5 km đóng vai tṛ quan-trọng trong việc vận-chuyển than lên Thái Nguyên và sắt theo hướng ngược lại. Nói chung tàu thuyền đều có thể ngược ḍng sông Hồng lên đến Việt Tŕ và xa hơn, hoặc theo sông Thao lên Yên Bái, hoặc theo sông Lô lên Đoan Hùng, theo sông Đà lên Ḥa B́nh. Ở ven biển có tuyến Quảng-Ninh - Móng-Cái.

Các cảng sông góp phần tích-cực vào sự phát-triển của các thành-phố hay thị xă. Các cảng chính là Hà Nội, Hải-Pḥng, Cống Câu (Hải-Hưng), Hồng Gai (Hạ-Long), Thái B́nh, Ninh B́nh, Nam Định, Hồng Vân (Hà Tây), Việt Tŕ, Phú Thọ và Ḥa B́nh.

Tổ-chức vận-tải trong đồng-bằng sông Hồng theo quy mô công-nghiệp đóng vai tṛ quan-trọng trong thời chiến với các xà lan có trọng tải 500-1000 tấn, di chuyển thành đoàn do các tàu đẩy. Gần đây vận-tải đường sông có phần bị coi nhẹ (trừ việc vận-chuyển than, vật-liệu xây-dựng và một số mặt hàng nặng), luồng lạch có đoạn bị ứ bùn do không được nạo vét thường xuyên. Các cảng sông, v́ vậy, làm việc không đạt công-suất đă thiết kế [61].

Cục Đường Sông cho biết: hiện nay mới có 11.400 km sông tàu thuyền đi lại được trong tổng số 41.900 km. Các cơ quan chức năng lại chỉ quản lí 800 km sông. Trên các tuyến đường thuỷ, t́nh trạng khai thác xô bồ, tuỳ tiện, dẫn tới không đảm bảo an toàn giao thông, phá vỡ môi trường sinh thái và mất trật tự an ninh xă hội. Ḍng sông bỗng trở thành "điểm nóng", cần được chính-quyền quan tâm cải-thiện.

 

 2.11 - Hải-Đảo Việt-Nam

Có nhiều điều lư-thú khi nghiên-cứu các đảo Việt-Nam. Giáo-sư Lê Bá Thảo đưa ra một số điểm đáng kể như sau đây:

Ven bờ biển nước ta có vô số đảo, rất nhiều đảo nhỏ diện-tích từ 0,5 km2, xuống đến 0,001 km2. Việc kiểm kê số lượng không dễ dàng, và do đó ta hiểu là tại sao lại có trường hợp không đồng-nhất về con số. Những công cuộc điều-tra mới nhất[62] cho thấy hệ-thống đảo ven bờ gồm có 2773 ḥn lớn nhỏ, diện-tích tổng cộng lến đến 1720 km, trong đó chỉ có 84 đảo có diện-tích từ 1 km trở lên (chiếm 3% tổng số) nhưng chúng chiếm đến 92,73% tổng diện-tích. Chỉ có 3 đảo có diện-tích trên 100 km và 24 đảo trên 10 km.

Vị-trí các đảo so với đất liền rất thay đổi: có đảo nằm gần sát bờ chỉ cách bởi một lạch triều như đảo Cái Bầu, nhưng cũng có một số đảo nằm cách bờ đến trên 100 km như Bạch-Long-Vĩ cách Hải-Pḥng 135 km. Xa hơn nữa là các đảo ngoài Hoàng-Sa và Trường-Sa.

Cũng như lănh-thổ trên đất liền, các đảo ven bờ của Việt-Nam nằm hoàn toàn trong ṿng đai nhiệt-đới ẩm gió mùa. Chế độ nhiệt của không khí và của nước biển quanh năm cao, lượng mưa hàng năm lớn.

Theo thống-kê mấy năm vừa qua, cả nước có 6 đảo lớn với số dân định-cư vượt quá 10 ngàn người. Vịnh Bắc-Việt chiếm 3 trong 6 đảo. Đó là các đảo Cái Bầu (trên 20,000 người), Cát Bà (trên 15,000 người và Cát Hải (trên 13,000 người), Các đảo kia, lớn nhất là Phú Quốc (trên 50,000 người), Phú Quư (khoảng 18,000 người) và Lư Sơn (trên 16,000 người).

Đảo có số dân khá nhiều là Cô Tô, chừng 2500 người. Đảo đang trong chương-tŕnh tái định-cư là Bạch-Long-Vĩ và Cồn Cỏ. Có đến hơn 1000 đảo hiện chưa có tên v́ kích-thước quá nhỏ và thường không có người cư-ngụ.

Các đảo có điều-kiện thuận-lợi nhất cho sự định-cư [63] thông-thường là các đảo (hay cụm đảo) có diện-tích lớn, có đất trồng, lớp phủ rừng và nước ngọt và tất nhiên có khả-năng có cảng cho tàu thuyền cập bến. Những đảo có vị-trí nằm cạnh các ngư trường lớn cũng lôi kéo các ngư-dân đến định-cư.

 

2.12 - Địa-chất Các Đảo ven biển Vịnh Bắc-Việt

Cũng theo Giáo-Sư Lê Bá Thảo về mặt phân bố, mật-độ các đảo cao nhất Việt-Nam nằm ở ven biển những tỉnh Quảng-Ninh và Hải-Pḥng: chúng chiếm đến 83,7% về số lượng và 48,9% về diện-tích toàn-thể các đảo Việt-Nam.

Theo website tự giới-thiệu của tỉnh Quảng-Ninh, Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng địa h́nh độc đáo. Hơn hai ngh́n ḥn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/2779), đảo trải dài theo đường ven biển hơn 250 km chia thành nhiều lớp. Có những đảo rất lớn như đảo Cái Bầu, Bane Sen, lại có đảo chỉ như một ḥn non bộ. Có hai huyện hoàn toàn là đảo là huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô. Trên vịnh Hạ Long và Bái Tử Long có hàng ngàn đảo đá vôi nguyên là vùng đại h́nh Karst bị nước bào ṃn tạo nên muôn ngh́n h́nh dáng bên ngoài và trong ḷng là những hang động kỳ thú. Vùng ven biển và hải đảo Quảng Ninh ngoài những băi bồi phù sa c̣n những băi cát trắng táp lên từ sóng biển. Có nơi thành mỏ cát trắng làm nguyên liệu cho công nghệ thuỷ tinh (Vân Hải), có nơi thành băi tắm tuyệt vời (như Trà Cổ, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vùng...)[64]

Các đảo trong từng vùng biển có đá cấu-tạo gần như cùng loại với các đồi núi nằm ven biển trên đất liền v́ trong thực-tế, chúng là phần ŕa của lục-địa bị nước biển tràn ngập từ giữa thời Plêistoxen cho đến nay. Ở Đông-Bắc vịnh Bắc Bộ, tương ứng với phần bắc tỉnh Quảng-Ninh (tỉnh Hải-Ninh cũ), các đảo quan-trọng là Cái Chiên, Vĩnh Thực, Cái Bầu, quần-đảo Cô Tô, Thanh Lam được cấu-tạo bằng đá trầm-tích và trầm-tích biến-chất. Trong khi đó, nhóm đảo thứ hai tại khu-vực các vịnh Bái-Tử-Long và Hạ-Long ở về phía Nam của tỉnh, được cấu-tạo bằng đá vôi.

 

 

H́nh 34. H́nh-ảnh Sinh-hoạt ở Đảo Cát Bà

 

 

H́nh 35. H́nh-ảnh thơ mộng của các đảo Hạ-Long qua nét vẽ của một ngướ Pháp cách nay hơn một thế-kỷ.

 

Các đảo và quần-đảo thuộc hai nhóm này tuy cùng nằm trong vùng biển phía bắc Vịnh Bắc-Việt, cùng chịu chung những tác nhân ngoại lực như nhau với các điều-kiện khí-hậu tương-tự; nhưng địa-h́nh của chúng lại khác nhau:

(1) Các đảo đá trầm-tích hoặc trầm-tích biến chất có địa-h́nh là những quả đồi với sườn dốc thoai thoải.

(2) Các đảo đá vôi có h́nh-thể hiểm trở hơn nhiều do quá tŕnh ḥa tan và gậm ṃn của nước. Thêm vào đó, lại có sự sụp đổ từ ngoài trên các sườn. Tính kỳ ảo của Vịnh Hạ-Long như là một kỳ quan của thế-giới, đă được UNESCO[65] công nhận, chính là phụ thuộc vào đặc-tính của núi đá vôi [66].

Các đảo ven bờ được cấu-tạo bởi vật-chất bở rời chỉ thấy ở các cửa sông, ở ŕa đồng-bằng sông Hồng[67] Đảo Đ́nh Vũ ở Hải-Pḥng là một thí-dụ. Bề mặt của các đảo này chỉ cao trên mặt nước biển khoảng 2-3m, bị chia cắt bởi các lạch triều và có h́nh dạng thay đổi tùy theo sự công phá của sóng biển.

Đảo Ḥn Mê (Tỉnh Gia, Thanh Hóa) có đỉnh cao 251 m sườn dốc hoặc rất dốc mặc dù như thường thấy ở miền nhiệt-đới, ngay ở chân sườn đổ xuống biển bao giờ cũng có một riềm đá vụn hoặc trầm-tích có bề mặt nằm ngang hoặc rất thoải bao bọc.

 

2.13 - Số lượng các Đảo Vịnh Bắc-Việt

Như đă được đề-cập ở đoạn trên, số đảo ven biển Quảng-Ninh và Hải-Pḥng chiếm tới 83.7% tổng-số đảo toàn-quốc. Nếu số lượng hải-đảo kiểm-kê năm 1995 trong đề-tài KT-03-12 được kể là chính xác, tổng số đảo Việt-Nam trong Vịnh Bắc-Việt gồm có:

- 2,321 đảo ngoài khơi Quảng-Ninh Hải-Pḥng.

- đảo Bạch-Long-Vĩ ở giữa Vịnh Bắc-Việt.

- hàng chục đảo cùng cồn cát ở ngoài khơi vùng châu-thổ các Sông Hồng, sông Thái-B́nh và phụ-lưu của nó. Các đảo này do phù-sa và ḍng nước sông, biển tạo thành; hôm nay hiện ra, ngày mai mất đi (phù-đảo). 

- ḥn Nẹ, ḥn Nghi Sơn và quần-đảo Ḥn Mê với các ḥn Vang, ḥn Vát, ḥn Bong, ḥn Gác, ḥn Đó ngoài khơi Thanh-Hóa.

- đảo Ḥn Mát và những ḥn đảo nhỏ hơn như Ḥn Niêu (Ḥn Ngư), Ḥn Tuần ngoài khơi Nghệ-An.

- đảo Cồn Cỏ ngoài khơi Quảng-Trị.

Cộng lại, số lượng đảo Vịnh Bắc-Việt phía Việt-Nam không dưới con số 2340 đảo lớn nhỏ[68]. Với một con số đảo quá nhiều như vậy, chúng tôi chỉ có thể lược-duyệt h́nh-thể một số đảo đặc-biệt quan-trọng ở đây mà thôi.

 

2.14 - Đảo Bạch Long Vi

Tọa-độ: 20 độ 08’ vĩ-độ Bắc, 107 độ 43’ kinh-độ Đông.

Đảo Bạch Long Vĩ nằm gần trung-tâm vịnh Bắc-Việt, cách đất liền nước ta khoảng 110 km, cách đảo Hải-Nam (Trung Hoa) khoảng 130 km, cách đảo Cát Bà khoảng 95 km và cách thành-phố Hải-Pḥng khoảng 13km về phía Đông Nam.

 

 

H́nh 36. Đảo Bạch Long Vĩ

 

Đảo Bạch Long Vĩ có chiều dài 4.5 km, chiều ngang nơi rộng nhất là 1.6 Km, diện-tích 250 ha (2.5km) với chứng 1,000 dân-cư. Điểm cao nhất của đảo là 62 m. Biên-độ thủy triều trong vùng biển này tăng đến mức tối-đa 3,76 m.

Đây là một khu bảo-tồn biển. Tổng diện-tích là 550 ha, trong đó diện-tích đảo nổi là 250 ha và diện-tích mặt biển là 300 ha[69], ấn-định vào năm 1995. Sau đó, Ngân-hàng Phát-triển Châu Á (Asian Development Bank, ADB 1999) đề-nghị tăng diện-tích lên 90,00 ha, trong đó diện-tích đảo nổi là 250 ha và diện-tích mặt biển là 89,750 ha.

Đảo Bạch Long Vĩ là một trong những vị-trí chiến-lược quan-trọng nhất của Miền Bắc-Việt-Nam. Đảo đứng đơn-độc, trong phạm-vi bán kính rộng tới 75 km không c̣n một ḥn đảo nào khác. Đảo được trang-bị radar viễn-thám, là nơi cặp bến sửa chữa cho các thuyền đánh cá xa bờ. Kể từ ngày 13-8-1999. một trạm viễn-thông qua vệ-tinh (VSAT) đă được thiết-lập để giúp cho việc thông-tin liên-lạc với Hải-Pḥng được dễ-dàng hơn[70].

 

 

Hinh 37. Cầu tàu đă được xây-cất tại đảo Bach-Long-Vĩ

 

2.15 - Đảo Trà Cổ và vùng Hải-biên

Phía Đông của Mũi đất Trà Cổ (Kinh-độ 108 độ 03 phút 18 giây) là hải-giới hiện nay của Việt-Nam và Trung-Hoa.

Trà Cổ trước đây là một ḥn đảo sát bờ biển Móng-Cái. Do tác-dụng của phù-sa và ḍng nước biển bồi đáp, eo biển hẹp dần rồi biến mất. Trà Cổ ngày nay đă trở thành một bán-đảo, có đường chạy dọc băi biển nối với thị-trấn Móng Cái.

 

 

H́nh 38. Cầu Biên-giới Bắc-Luân  

 

 

H́nh 39. Đầu thế-kỷ 20, Trà-Cổ là một ḥn đảo, nay hầu như đă dính với bờ 

 

Bán đảo Trà Cổ có chiều dài khoảng 16 km, chiều ngang chỗ rộng nhất khoảng 2 ki–lô–mét. Bán đảo gồm có hai xă :Trà Cổ và B́nh Ngọc. Dải cát trắng mịn lộng gió này là một băi biển tuyệt đẹp, theo một số người có lẽ chỉ thua băi biển Song-Tử Tây ngoài Trường-Sa.

Thị xă Móng Cái nằm sát biên giới cách băi biển Trà Cổ 7 km, đối-diện với thị-trấn Đông-Hưng của Trung Hoa. Chiếc cấu Bắc Luân nối liền hai bên[71]

 

2.16 - Đảo Cồn Cỏ

Tọa-độ::17 độ 10’ vĩ-độ Bắc, 107 độ 20’ kinh-độ Đông

Đảo Cồn Cỏ cách bờ biển tỉnh Quảng Trị vào khoảng 25 km. Đảo gần tṛn, có mũi nhọn hướng Đông Bắc. Diện-tích 350 ha (3.5 km2). Cửa Vịnh Bắc-Việt được 2 chính-quyền Việt-nam và Trung-Hoa thoả-thuận đóng ở đây . Khoảng cách Cồn Cỏ đến Mũi Oanh Ca đo được 119 hải-lư (220 km).  

 

 

H́nh 40. H́nh-thể đảo Cồn Cỏ  [72]

 

Đảo Cồn Cỏ là một trong 16 khu bảo-tồn biển từ năm 1998. Năm 1999, việc đề xuất thành lập khu bảo-tồn biển đảo Cồn Cỏ lại được Ngân-hàng Phát-triển Châu Á (ADP 1999) nhắc lại trong kế-hoạch xây-dựng hệ thống khu bảo-tồn biển Việt Nam. Diện-tích khu bảo-tồn được đề-nghị là 2,490 ha, trong đó vùng biển có 2,140 ha và vùng đất liền trên đảo là 350 ha.

Đảo Cồn Cỏ có hai quả đồi thấp, cao tới 63 m và 37 m. Vùng ngập triều đặc trưng bởi băi cát hẹp, bị các mỏm đá chia cắt Vùng đất liền có các lớp bazan, bao phủ bởi xác san-hô và các trầm-tích xốp.Vùng nước biển xung quanh Đảo Cồn Cỏ phía bờ chỉ sâu tới 15-20 m, nhưng phía Đông, đáy biển sâu đến hơn 30 m.

 

2.17 - Đảo Hải-Nam

Chúng tôi dành mấy đoạn ngắn sau đây để nói vài điều tổng-quát liên-hệ đến Hải-Nam, đảo của Trung-Hoa nằm ở phía Đông Vịnh Bắc-Việt.

Hải-Nam là một tỉnh-đảo, dân-số 7,870,000 người (2001), diện-tích 33,940 km2 (13,100 sq mi), nằm cách bờ biển Lôi-Châu, Quảng-Đông bằng eo biển Quỳnh-Châu. Eo này rộng chừng 16 hải-lư (30 km). Hải-Khẩu (Haikou) là thủ-đô và thành-phố lớn nhất. Mặc-dù Trung-Hoa thường đưa ra những con số thống-kê lớn về dân Hán, nhưng thổ-dân sắc-tộc Lí (1,000,000 người, Miêu (50,000 người) và Hồi vẫn c̣n sinh-sống đông-đảo khắp đảo, cả trên vùng núi non.

Những dân bản-địa này c̣n giữ sắc-thái riêng, ít bị Tàu-hóa. Những khu-vực tự-trị nằm ở miền Trung và miền Nam của đảo, gồm có:

- 5 quận dành cho người Lí,

- 2 quận cho người Lí và Miêu sống chung với nhau

- 4 thị-trấn dành cho người Lí

- 1 thi-trấn cho người Lí và Miêu sống chung với nhau.

Người Hán thường thích sống tập-trung ở thành-thị, mật-độ cao tại các thi-trấn vùng Bắc và vùng duyên-hải miền Nam của đảo.

 

 2.18 - Ư-nghĩa Địa-danh

Cũng như nhân-danh, địa-danh mang ư-nghĩa chân-thực của vùng đất mà nó mang tên. Hải-Nam mang tên này v́ nó là hải-đảo nằm ở cực Nam nước Trung Hoa. Lại xem-xét bản-đồ Hải-Nam, người ta thấy tên Tian-Ya-Hai-Jiao (Thiên-Nhai Hải-Giác). Địa-danh này nằm gần thị-trấn Sanya có nghĩa là chân trời góc biển.[73]

Lănh-thổ và hải-phận Trung-Hoa rơ-ràng được xác-định giới-hạn ở đây là tận cùng phía Nam của đất nước họ.

 

H́nh 41. Bản-đồ đảo Hải-Nam. Lưu-ư hai địa-danh Đông-Phương (Dongfang) và Thiên-Nhai Hải-Giác (Tian-Ya-Hai-Jiao)

 

Sản-phẩm chính của đảo là cao-xu, hải-sản. Ngoài ra có gạo, đường, thuốc lá, cà-phê, trái cây. Sinh-hoạt mới nhất đang làm thay đổi bộ mặt Hải-Nam là kỹ-nghệ dầu khí. Những nhà máy, những đường ống dẫn khí đốt đă bao trùm khắp đảo. Sự xây-dựng cơ-sở này đi theo nhiều kế-hoạch bành-trướng hải-phận trong Vịnh Bắc-Việt và luôn cả chiến-lược lớn vùng Biển Đông.

 

H́nh 42. Cảnh núi non trên đảo Hải-Nam

 

Đối với người Việt-Nam chúng ta muốn t́m-hiểu đảo Hải-Nam, tài-liệu ngắn ngủi[74] sau đây được các hăng dầu lửa ghi-nhận thực-sự là kiến-thức quan-trọng: Hải-Nam là tỉnh nhỏ nhất của Trung-Hoa, nhưng sở-hữu tới 44.6% diện-tích của toàn-thể hải-phận nước này.

H́nh 43. Hệ-thống Khai-thác Dầu-khí của Trung-Hoa trong khu-vưc Hải-Nam. Lưu-ư vị-trí các mỏ khí đốt lớn hướng về phía Bắc-Việt / Hoàng-Sa.

 

Chúng tôi xin chép nguyên-văn bản tin đó trong phần phụ-chú (footnote) để độc-giả tiện truy-cứu[75].

 

2.19 - Những đảo khác của Trung-Hoa trong Vịnh Bắc-Việt

Ngoài Hải-Nam và những “phù-đảo” không có tính cách vững bền nằm gần những cửa sông, người ta chỉ thấy phía Trung-Hoa có hai đảo nữa trên bản-đồ là Vĩ-Châu và Xê-Giang trong Vịnh Bắc-Việt.

Đảo Vĩ-châu h́nh bầu dục gần như tṛn chiều dài chừng 11km, có một vịnh cặp tàu thuyền rất tốt ở phía Nam. Đảo Xê-Giang nhỏ hơn nhiều, gần như h́nh chữ nhật 3x4Km. Hai đảo này không có đặc-điểm kinh-tế ǵ quan-trọng, thường là trạm đừng chân của dân đánh cá Trung-Hoa. Đảo Vĩ-Châu nằm gần mũi đất Bắc-Hải (Quảng Tây), Xê-Giang (Xe-Yang) gần Lôi-Châu, Chúng cách bờ biển 25 hải-lư - Khoảng 45 Km. 

 

2.20 - Những cảng Trung-Hoa Vùng Vịnh Bắc-Việt.

            Hiện nay, Trung-Hoa đang cải-tiến các hải-cảng trong khu-vực Vịnh Bắc-Việt như hai cảng Pḥng-Thành, Bắc-Hải thuộc Quảng Tây và cảng Dương-Bộc thuộc Hải-Nam.

            Cảng Pḥng-Thành nằm về phía Tây của Vịnh Khâm-châu. Hàng hóa chính xuất nhập gồm có: ngũ cốc, phân bón, mía đường, sắt thép, xi-măng, gỗ, than đá , quặng mỏ, vật-dụng cho nông ngư-nghiệp.

            Cảng Bắc-Hải lớn hơn, cũng như cảng Pḥng-Thành là cửa ngơ chính của Khu Tư-Trị Chuang vùng Nam-Ninh mở ra biển. Hàng hóa chính xuất nhập gồm có: lúa gạo, trái cây, hải-sản, gỗ, phân bón, hàng gia-dụng, các loại pháo, pháo bông...

            Cảng Dương-Bộc nằm ở phía Tây đảo Hải-Nam, lúc trước đây là ngư-cảng, nay đang bành-trướng để trở thành một hải-cảng. Cho dù tiện-nghi như nước ngọt chưa được cung-cấp đầy đủ nhưng cảng đă bắt đầu tiếp-nhận các tàu dầu và tàu chở khí đốt cặp bến.

 

 

H́nh 44. Vị-trí những Hải-cảng Pḥng-Thành, Bắc-Hải, Dương-Bộc và đảo chính phía Trung-Cộng. Hải-Khẩu làmột cảng nữa của Trung-Hoa nằm xa hơn về phía eo biển Lôi-Châu.

 

H́nh 45. Sơ-đồ xây-dựng cảng Pḥng-Thành

 

 

H́nh  46. Sơ-đồ Cảng Bắc-Hải[76]

           

            Nói chung những cảng biển của Trung-Hoa chưa đạt tiêu-chuẩn của các thương-cảng lớn, nhưng đă dư thừa khả-năng yểm-trở kỹ-thuật hạm-đội đánh cá hùng-mạnh của họ. Trong tương-lai, những cảng biển này sẽ càng thêm quan-trọng v́ các hoạt-động đang gia-tăng của Trung-Hoa trên Biển Đông, đặc-biệt là trong Vịnh Bắc-Việt. Ưu-điểm của những cảng biển của hai tỉnh Quảng-Tây và Hải-Nam vượt trội các cảng của ta thuộc tỉnh Hải-Ninh v́ tầm nước ra vào sâu hơn, ít bị cát bùn bồi lấp và cũng kín gió hơn. Tuy nhiên, nhu-cầu phát-triển các cảng cũng lệ-thuộc vào t́nh-trạng phát-triển của vùng hậu-cảng. Trọng hiện-trạng, cảng Hải-Pḥng của Việt-Nam vẫn c̣n chiếm hàng đầu trong Vịnh Bắc-Việt.

 

 

H́nh 47. Bản-đồ hải-cảng Dương-Bộc với những tiện-nghi hải-cảng đang thành h́nh

 

2.21 - Vịnh Bắc-Việt, nơi “Đầu sóng Ngọn gió”

            Đi biển khi sóng to gió lớn, tàu thuyền mong vào được trong vịnh để neo bến nghỉ-ngơi. Có người tưởng Vịnh Bắc-Việt như một vùng kín gió v́ Vịnh không những nằm khuất sau đảo Hải-Nam lại c̣n được bao quanh bởi các tỉnh Quảng Đông, Quảng-Tây ở phía Bắc và một nửa lănh-thổ Việt-Nam về phía Tây và Tây-Nam. Thật ra đây là khu-vực “đầu sóng ngọn gió”.

Thoạt nh́n trên bản-đồ tỷ-lệ nhỏ, người ta thường không ư-thức rằng Vịnh Bắc-Việt bao trùm một không-gian rộng tới trên dưới 300km mỗi chiều, kích-thước này đủ lớn để vùng trung-tâm của nó không được bờ biển che-trở. Hơn thế nữa, hướng mở cửa của Vịnh lại quay đúng về hướng thổi tới của các trận băo nhiệt-đới là hướng Đông-Nam. Địa thế của Vịnh như vậy không khác ǵ một cái phễu hứng trọn những cơn thịnh-nộ của biển trời. Trung b́nh hàng năm Việt Nam chịu ảnh hưởng của từ 4 đến 6 cơn băo. Hơn một nửa số đó thổi vào Vịnh Bắc-Việt.

 

2.22 – Diễn-tiến Cơn Băo-tố

Băo-tố có mùa. Băo Biển Đông hay đại-phong (typhoon) là băo nhiệt-đới, thường xảy ra những lúc giao mùa, nhất là từ tháng 7 đến tháng 10. Băo giảm đi từ tháng 11 nhưng cũng vẫn c̣n đến tháng 12. Tuy vậy, vào giữa mùa gió Đông-Bắc, băo làm biển trở nên động dữ dội hơn và kéo dài trong nhiều ngày. Hải-hành trên Biển Đông thường nguy-hiểm khi gió mùa Đông-Băc thổi mạnh, sóng cao nhiều thước.

Sau khi thành-lập, băo thường di-chuyển hướng Tây, nhưng rồi chuyển dần lên hướng Đông-Bắc nên Nam-phần không mấy khi bị băo lớn tàn-phá. Có tới chừng 1 phần 3 các trận đại-phong đi từ Thái-b́nh-Dương thổi về, qua Trường-Sa và Hoàng-Sa, tiến vào bờ biển Trung-Việt và vịnh Bắc-phần.

Khi băo xuất-hiện, ta thấy các hiện-tượng như sau: Trời oi bức, khí áp xuống nhanh. Trên bầu trời xuất hiện những mây cao bay nhanh như bó lông (cirrus panachés.) Vài giờ sau bầu trời bị che phủ bởi một lớp mây rất mỏng (cirro status), mặt trời chung quanh có quầng, rồi dần dần bầu trời trắng nhạt. Sau đó đến lượt những mây thấp có h́nh vẩy cá (cirro cumulus.) Rồi đến một lớp mây đen, dày cao lối 3,000m (altostatus), tất cả bầu trời trở nên u ám; mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống nhanh. Trần mây thấp dần xuống (50 - 100 mét), mây bay nhanh, gió thổi mạnh từng cơn, mưa nặng hạt, băo đă tới ...

Cường-độ gió băo thông-thường vào khoảng từ 50 gút đến 90 gút, đôi khi vượt quá 100 gút. Cơn băo kéo dài nhiều tiếng đồng-hồ. Khi sấm sét đă xuất hiện, gió yếu dần th́ có thể coi như cơn băo đă qua...

 

 

H́nh 48. Số lượng những trận băo mọi loại thổi vào Việt-Nam 53 năm (1945 -1998). Chia ra những tháng trong năm[77]

 

2.23 – Vùng Băo Lụt:

Băo và lụt là các thiên-tai lớn nhất đe dọa nước ta, nhất là ở miền Bắc và miền Trung Việt-Nam, tổn-thất nhân-mạng có thể đến những mức độ khủng khiếp.

Theo Giáo-sư Nguyễn-Gia-Phụng[78], lư do chính v́ vị-trí địa-lư đặc biệt của nước ta. Trước hết nước Việt nằm ở phía Đông Nam của đại-lục Âu Á. Điều đó có nghĩa là nằm ở phía Tây của Thái B́nh Dương. Hằng năm, đến mùa nóng khô, nhiệt-độ đại lục lên cao, tạo thành những vùng hạ áp, trong khi đó biển Thái B́nh mát, nhiệt-độ thấp. Không khí sẽ di chuyển từ biển vào đất liền. Ngược lại, vào mùa lạnh, nhiệt-độ đại lục thấp, nhiệt-độ đại dương ấm, áp suất không khí thấp trên mặt biển, gió sẽ từ đại lục ra đại dương. T́nh trạng nầy tạo thành gió mùa hằng năm ở khu vực Đông nam Á.

Thứ nh́, Việt Nam nằm ở vùng giữa hạ chí tuyến (23 độ 27 phút Bắc) và xích đạo (0 độ). Quanh năm, xích đạo nóng ấm, gió từ hạ chí tuyến thổi về xích đạo. Theo luật Coriolis, do việc quả đất tự chuyển động quanh một trục tưởng tượng từ Đông sang Tây, tất cả các động tử di chuyển trên quả đất đều bị lệch hướng đối với hướng ban đầu về phía tay mặt ở Bắc bán cầu, và phía tay trái ở nam bán cầu. Việt Nam nằm ở bắc bán cầu. Do đó, quanh năm, gió từ đại lục phía bắc thổi xuống hay từ hạ chí tuyến thổi đi, nghĩa là gió của cả hai mùa, đều bị lệch hướng về phía tay mặt, có nghĩa là đều chĩa vào Việt Nam. Khi gió di chuyển, gió mang theo mây và sẽ tạo mưa khi có những điều-kiện nhiệt-độ thuận tiện.

Hàng năm những trận băo biển và gió mùa Tây Nam đă gây nên những trận mưa lớn ở miền thượng du cũng như đồng bằng miền Bắc. Băo tố mang gió to làm sụp đổ nhà cửa, băo-tố cũng mang mưa lớn làm lụt lội, làm đất trùi… Ở Việt-Nam, người chết v́ lũ lụt trong quá khứ nhiều hơn tất cả các loại thiên-tai khác.

Tiến-sĩ Trần Tiễn Khanh và Nguyễn Khoa Diệu-Lê (10/2001) cho biết rằng nguyên nhân chính của lũ lụt ở Sông Hồng nói riêng và miền Bắc nói chung là những trận mưa lớn ở thượng lưu và vùng đồng bằng. Các nguyên nhân khác như nạn phá rừng chỉ có thể làm lũ lụt trầm trọng hơn mà thội. Những trận mưa lớn do các cơn băo biển Đông và gió mùa Tây Nam gây nên.

Khi bàn về lũ lụt ở miền Trung, hai tác-giả trên kết-luận rằng nguyên nhân chính là do những trận mưa lớn ở thượng lưu và vùng đồng bằng. Các nguyên nhân khác như nạn phá rừng làm lũ lụt trầm trọng hơn. Những trận mưa lớn do các cơn băo biển Đông và gió mùa Đông Bắc gây nên.[79] Ngoài ra, các sông ng̣i ở miền Trung không có hệ thống đê để ngăn lũ. Miền Trung cũng không có các hồ chứa nước lớn ở vùng thượng lưu để giảm thiểu lũ lụt ở vùng đồng bằng. Các khu đông dân cư ở hai bên bờ sông đành chịu ngập tràn mỗi khi có mưa to.

Trong thời-gian-qua, những dân-cư mới được đưa đến định-cư thường chịu thiệt-hại nhân-mạng hơn người địa-phương v́ họ không có đủ kinh-nghiệm đề-pḥng thiên-tai về băo-lụt

 

H́nh 49. Đường di-chuyển tiêu-biểu của một trận băo thổi vào Vịnh Bắc-Việt, ghi nhận bởi Đài Khí-Tượng Hồng Kông.

 

2.24 - Những hiện-tượng thiên-nhiên khác.

Ngoài băo-táp là thiên-tai khủng-khiếp nhất, các vùng đất Đông-Nam-Á nằm ngoài đại-dương c̣n trải qua một số các thiên-tai khác như, động đất, núi lửa, đất trùi, sóng thần v.v... May mắn cho dân-cư Việt-Nam sống cạnh vùng vịnh Bắc-Việt nông cạn không gặp nhưng tai-nạn này.

Nói riêng về động đất, thỉnh thoảng có một vài trận với cường độ vừa phải đă xảy ra, nhưng hầu như chưa gây thiệt hại nào đáng kể. Tuy vậy người dân thủ-đô Hà-Nội, v́ nằm trên một đường gấp của địa-chất, cũng nên lưu-tâm đến kiến-trúc nhà cửa để khi địa-chấn xảy ra, đỡ bị thiệt-hại. Trong hai trận động đất gần đây, ngoài một lần ở Lai-Châu th́ có một lần nữa đă xảy ra ngoài Vịnh Bắc-Việt, trong vùng bờ biển giữa Quảng Tây và Hải-Nam, cường-độ lên tới 6.1 trên địa-chấn-kế Richter. Hàng trăm người bị thương-tích, nhưng may mắn không có ai thiệt-mạng.

Trở về quá-khứ người ta thấy Bắc-Việt chỉ bị những lần động đất nhẹ ghi trong sử sách. C̣n đảo Hải-Nam, nền đất tương-đối cũng bền vững. Địa-chấn lớn nhất trong cận-đại xảy ra năm 1605 với cường độ 8.0. Phía Đông Hải-Nam có thể họa hoằn bị ảnh-hưởng của sóng thần tàn-phá v́ quay ra phía biển sâu. Trung-b́nh đảo này chịu đựng 6 cơn băo theo thống-kê 50 năm qua, tương-đương như Viêt-Nam.

 

2.25 – Thủy-triều Vịnh Bắc-Việt

Thủy-triều trong vùng Biển Đông cũng như nhiều nơi khác trên thế-giới, rất phức-tạp. Có sự biểu-hiện đồng- thời của 4 loại thủy-triều khác nhau trên những đoạn bờ biển khác nhau của Việt-nam như sau.

- Chế-độ nhật-triều: Quan-sát thấy rơ nhất ở đoàn từ Ḥn Gai về đến Đồ Sơn. Càng lên phía bắc cũng như càng xuống phía nam, thủy-triều càng giảm tính thuần nhất .

- Nhật triều không đều: Từ nam Đồ Sơn đến nam Thanh Hóa, nếu nhật triều c̣n chiếm 2/3 số ngày trong tháng th́ ở ven biển Nghệ Tĩnh, số ngày đó chỉ c̣n chiếm già nửa tháng, và như vậy là đă xuất hiện nhật triều không đều.

- Chế độ bán nhật triều: Đoạn Quảng B́nh - Quảng Trị đă thấy có chế độ bán nhật triều không đều. Riêng ở bờ biển Thừa Thiên, bán nhật triều khá đều và là đoạn duy nhất ở Việt Nam có chế độ ấy.

- Tính chất bán nhật triều lại chuyển dần sang nhật triều không đều: Từ bờ biển Quảng Nam xuống đến bắc Nam-phần. Từ đó trở đi đến mũi Cà Mau, chế bán nhật triều lại trở nên rơ rệt nhưng ở vịnh Thái Lan th́ đă có nhật triều không đều và đều.   Do ảnh hưởng của địa thế, từ vịnh Bắc phần xuống tới Phan Thiết, thủy triều có biên độ một thước rưỡi và mỗi ngày lên xuống một lần. Từ Vũng Tàu xuống tới Mũi Cà Mau, thủy triều lên xuống mỗi ngày hai lần và có biên độ trung b́nh gần hai thước.

            Đồ-Sơn[80] là một bến quy-chiếu chính trong bảng Tide Table. Người ta dùng các yếu-tố thủy-triều Đồ-Sơn để điều-chỉnh lại và tính toán ra cao-độ và giờ giấc thủy-triều các bến dọc theo Vịnh Bắc Việt, trải dài từ đảo Cái Bầu, Hải-Pḥng, Ḥn Me đến cửa Nhật-Lệ và ra ngoài xa đến đảo Bạch-long-Vĩ. Thủy-triều này là loại nhật-triều hay c̣n gọi là toàn-nhật (diurnal.).

Tại duyên-hải Quảng Ninh, nhờ lớp đảo che chắn nên sóng gió không lớn như vùng biển Trung Việt. Chế độ thuỷ triều ở đây là nhật triều điển h́nh, biên độ tới 3-4m. Nét riêng biệt ở đây là hiện tượng sinh "con nước" và thuỷ triều lên cao nhất vào các buổi chiều những tháng mùa hạ, buổi sáng các tháng mùa đông những ngày có con nước cường. Trong vịnh Bắc Bộ có ḍng hải lưu chảy theo phương bắc nam kéo theo nước lạnh lại có gió mùa Đông Bắc nên đây là vùng biển lạnh nhất nước ta. Nhiệt độ có khi xuống tới 13oC.[81]

 

 

H́nh 50. Một đường biểu-diễn cao độ của thủy-triều trong một tháng.

 

2.26 - Hang Động Quanh Vịnh Bắc-Việt

            Chương Địa-Lư Thiên-nhiên này chấm dứt bằng một đoạn mô-tả một đặc-điểm thiên-nhiên đầy màu sắc nữa của vùng đất bao quanh Vịnh Bắc-Việt:.hang động.

            Người ta thấy ở miền Bắc Việt-Nam hàng ngàn hang động nổi tiếng từ thời thượng-cổ như: Hương Tích, Bích động, các động Thủy Liêm, Hoàng Thiên, Giao Long, Tam Thanh, Huyền Khung, Kỳ Duyên... Những Nam Thiên đệ nhất động, Nam Thiên đệ nhị động v.v… đều nằm quanh vùng Vịnh Bắc-Viêt. Từ Thừa-thiên đi vào Nam, xứ ta tuy cũng nhiều đồi núi nhưng hang động thật sự hiếm hoi[82].

            Với người thường, hang-động  được hiểu là những kỳ-quan mỹ-thuật của tạo-hóa. Với những nhà khảo-cổ khao-khát t́m-hiểu, đó là các kho-tàng mang nhiều bí-mật quá-khứ. Họ  tin-tưởng vào cơ-hội được nh́n thấy những h́nh-ảnh ngày khởi-sự của thế-giới loài người và của cả thời khai-thiên lập-địa.

Xa xôi như tại Sơn La, những nhà thám-hiểm người Bỉ đang lập báo-cáo, sắp hoàn-tất về 22 hang động (1993-2003) với chiều dài tổng-cộng vượt quá 10km. Những Hang Dơi 1 (1435m), Hang Rắn (1717m), Nam Khum (1323m), Thi Dơi (1551m) là những hàng động tương-đối ngang bằng, c̣n Hang Bà Hoàng (Queen’s Cave) đặc-biệt rất sâu (-151m).

            Vùng gần biền, nguyên khu cố-đô Hoa-Lư Ninh-B́nh, thống-kê đă ghi-nhận 32 hang động cả nổi, cả ngầm dưới ḷng đất. Động Trăng Khuyết, động Con Moong, động Pḥ Mă, động Người Xưa... mỗi động có vẻ đẹp kỳ thú riêng. Những hang ở Tam Cốc là Hang Cả (Big Cave), Hang Hai (Second Cave) và Hang Ba (Third Cave) cũng như nhiều hang khác chứng tỏ toàn vùng đă từng nằm sâu dưới biển thời xa xưa. Đăc-biệt tại hang Con Moong trong rừng Cúc Phương năm 1976, Giáo-Sư Phạm Huy Thông đă t́m ra mắt xích nối những sinh-hoạt của tiền-nhân giữa hai thời-đại Đá Cũ và Đá Mới.  Nhiều cổ-vật như các cỗ quan-tài và dụng-cụ đồ đá có niên-đại từ 7,000 to 10,000 năm được t́m thấy[83].

Ngoài biển trong Vịnh Bắc-Việt, khu Hạ Long có trên 300 hang động. Với số lượng lớn, hang động Hạ-Long có trăm h́nh, ngh́n vẻ, muôn màu sắc. Đến nay qua 5 năm tu bổ (1994-1999), du-khách có thể tới thăm 7 hang đẹp và tiêu-biẻu nhất là: Bồ Nâu, Đầu Gỗ, Sửng Sốt, Thiên Cung, Mê Cung, Tam Cung, Trinh Nữ. 

            Chúng tôi không thể nói hết mọi chuyện hang-động quanh Vịnh Bắc-Việt. Vậy xin mời độc-giả xem những cuốn sách đặc-biệt nói riêng về hang động Việt-Nam. Sau đây là một trong những lời mở đầu, giới-thiệu “hấp-dẫn”:

Nguyên-do thiên-nhiên tạo-dựng đồi núi, hang động thật là kỳ-bí.  "Thế gian biến cải, vũng nên đồi!”, Trái Đất cựa ḿnh, xô đẩy những vùng đất mênh mông "lang  thang trên đại dương, để rồi một ngày nào đó khoảng nhiều trăm triệu năm trước, những cuộc "bang giao " kỳ diệu bằng sự "va đập" mang tính “hôn phối" của các bộ phận trong vỏ thạch quyển làm nảy sinh nhiều rặng núi thiêng liêng. Người ta c̣n nghĩ rằng ḷng đất vận động, mặt đất "thở" cũng tạo cho nhiều dăy núi được trồi dần lên từ ḷng biển... Đó là dăy Hy Mă Lạp Sơn (Hymalaya) quanh năm tuyết phủ, là dăy Trường Sơn dọc dài theo đất nước Việt Nam. Những ngọn núi lô xô như tiếng “thầm th́" của vũ trụ gọi tầng cao đổ xuống những cơn mưa, tạo nên các ḍng sông văn minh tràn vào cơi thế. Từ đó muôn loài nảy sinh và loài người với tư cách "nhân loại trung tâm” đă xác nhận về sự tồn tại của vũ trụ và mối t́nh thần thánh của trời cha đất mẹ. T́nh của trời với những giọt mưa lặng lẽ len lỏi theo ghềnh đá, thấm vào ḷng núi... để rồi "tí tách thời gian rơi" được tính bằng nhiều triệu năm mà theo ḍng trôi chảy tạo thành hang động cùng vẻ đẹp huyền thoại của nhũ đá.”[84]

 


Chương 3

Địa-Lư Nhân-Văn:

Văn-minh và Sinh-hoạt

 

3.1 – Tính-cách Bản-địa của dân Việt-Nam

            Thế-giới ngày nay nghĩ rằng Việt-Nam, hay lớn hơn chút nữa: Đông-Dương là sản-phẩm của sợ giao-tiếp giữa hai thứ văn-hoá lớn Trung-Hoa và Ấn-Độ. Tuy vậy hai nền văn-hoá này chỉ mới xâm-nhập quê-hương ta, khi đó chỉ bao quanh Vịnh Bắc-Việt, chừng hơn 2,000 năm trở lại đây. Nếu đem so-sánh với số tuổi của các nền văn-minh "nước" Hoà-B́nh/ Đông-Sơn khởi-sự từ mười ngàn năm về trước th́ văn-minh của cả hai nơi Tàu và Ấn đều trễ hơn rất nhiều.

            William Meacham cho rằng vào thời Băng-Đá, tức hơn một chục ngàn năm trước đây đă có dân cư-trú dọc bờ biển Đông-Á, vùng Nanhailand, Sundaland. Nay chỗ đó là Biển Đông. Họ là tiền-nhân giống Việt thích-nghi đặc-biệt với biển, hồ, sông, nước sau này. Giống dân bản-địa này gặp khi mực nước biển dâng lên làm ngập lụt nơi cư-trú, đă phải chạy theo các ḍng sông di-chuyển lên các vùng cao trong nội-địa. Lư-thuyết-gia William Meacham đă đưa ra h́nh-ảnh khá chi-tiết về sinh-hoạt đặc-thù hàng-hải của dân Việt trong bài "Origins and Development of the Yüeh Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia"[85]

C̣n người Tàu xuất-hiện ở Đông-Á rất trễ. Trong giai-đoạn đầu mới lập-quốc qua các đời Đường Ngu, Hạ; lănh-thổ Trung-Hoa nằm sát nguồn sông Hoàng-hà, c̣n rất nhỏ hẹp. Cho đến đời nhà Thương (1766-1050 Trước Tây-Lịch) nước Tàu tuy có mở lớn hơn nhưng cũng chỉ vào khoảng tối-đa mỗi chiều 400km x 300km, tức vài ba trăm dặm mỗi-chiều.[86] Cuốn sách “Chine Esprit et Société” của Speiser nghiên-cứu sự việc này. John King Fairbank cung cấp một bản-đồ, ước-lượng lănh-thổ đó vào khoảng 10, 000 km2.

H́nh 51. Địa-bàn sinh sống của các sắc dân vùng Hoa-Nam theo sử-liệu Trung-Hoa. Người Việt đông-đảo nhất, chiếm địa-bàn rộng răi, ph́-nhiêu nhất. (Bản-đồ Wiens[87] & Bản-đồ Fairbank[88])

 

Nước Tàu hồi đó ở xa với duyên-hải và người dân Trung-Hoa c̣n rất lạ lùng với biển cả. Cũng vào thời này, người Việt tuy chưa tạo được h́nh-thức quốc-gia chặt chẽ nhưng có lẽ đông đảo hơn người Tàu rất nhiều và đất đai họ chiếm ngự nhất-định bao-la rộng lớn, ít nhất cũng lớn gấp hàng chục lần so với nước Tàu nguyên-thủy.

 

3.2 - Những Sinh-hoạt khi Biển tiến.

            Trở lại với sinh-hoạt tiền-nhân lúc nước Biển Đông dâng lên làm ngập thềm lục địa. Họ đă phải dần dà, lần lượt di cư hoặc t́m cách lánh biển tiến. Theo Stephen Oppenheimer nói trong cuốn sách Eden In The East [89], có người lùi dần vào phía đất cao trong lục địa, có người đóng tàu đi biển, người ở lại th́ phải cất nhà sàn. Có thể một số nhỏ đă vượt biển, nhưng số đông chọn giải pháp đơn giản đối với họ là tiến vào chỗ đất liền gần nhất ; đối với cư dân vịnh Hạ Long, đó là vùng bờ biển Nam Bắc phần và Bắc Trung phần Việt Nam. Chủ nhân các văn hoá ven biển như Đa Bút, Quỳnh Văn, Bàu Tró, và cả Bàu Dủ, Sa Huỳnh do đó đều là những người Nam Đảo tị nạn biển tiến.

Khi duyệt sách trên, Ông Nguyễn Quang Trọng kể tiếp như sau: Riêng dân sống trên thềm lục địa biển vùng Đông Nam Trung Hoa, một số lùi vào phía Hong Kong trong lục địa, một số lên chỗ cao bên ngoài là đảo Đài Loan. Di tích xưa ở  Dapengeng bắc Đài Loan có gốm hoa văn thừng và hoa văn chải bằng "lược", cùng loại với nhiều di tích trên bờ biển Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam, và cư dân nơi ấy cũng ăn ṣ nhiều, cũng dùng chày đập vỏ cây. Ngựi sống trên lục địa này sau đó bị Hán hoá. Xem qua di tích khảo cổ, tại Đài Loan ngoài các di tích, thổ dân trên núi c̣n giữ tiếng Nam Đảo và một số phong tục đến bây giờ (thí dụ ăn trầu). Những di tích nầy được Trung Hoa xem như di tích của người "Yue"[90] (Việt) cổ.

Ngày nay các nhà khảo cổ đều đồng ư là cư dân nam Trung Hoa cổ, và thổ dân chưa bị lai hoàn toàn, không thuộc chủng tộc Hán. Cư dân vùng cực nam Trung Hoa (Quảng Đông và QuảngTây, Vân Nam, Quế Lâm) và cực bắc Việt Nam nói những thứ tiếng thuộc nhiều nhánh khác nhau của ngôn ngữ gốc Austric như Môn, Thái, Kadai, Yao, Miêu.[91]

Giúp cho phần tŕnh-bày được rơ ràng, Ông Nguyễn Quang Trọng c̣n cung-cấp một tấm bản-đồ chỉ những hướng đi của dân Nam-đảo.

Dưới đây là bản đồ và chú thích của tác-giả:

Bản đồ vùng Đông Nam Á lục địa, từ Nam Trung Hoa đến Trung Việt Nam. Bờ biển phía Đông (đường liên tục __ ) được thềm lục địa (độ sâu dưới 100 m, đường vẽ- - -) bọc bên ngoài đến tận đảo Đài Loan và Hải Nam. Những mũi tên chỉ hướng đi của dân nói tiếng Nam Đảo từ ngoài thềm lục địa di tản vào đất liền dọc bờ biển Bắc Việt khi vùng vịnh Hạ Long bị biển ngập.

 

 

H́nh 52. Địa điểm di tích các nền văn hóa:

1- Soi Nhụ; 2- Hạ Long; 3- Đa Bút; 4- Quỳnh Văn; 5- Bàu Tró; 6- Sa Huỳnh; 7- Hong Kong (cửa sông Châu giang); 8- Dapengeng; HB: Hoà B́nh.

2- Các di tích dọc sông Dương Tử: a- Sanxingdui, b- Pengtou; c- Diantonghuan; d- Hemudu.

 

            Là một nhà nghiên-cứu được biết nhiều trên mạng điện-toán, Ông Nguyễn-Văn-Tuấn đặc-biệt chỉ cho thấy nền-tảng vững chắc của những thuyết di-dân từ Đông-Nam-Á lên phía Trung-Hoa. Ông viết:

Mới đây thuyết Bắc-tiến c̣n có căn cứ khoa học vững vàng (dù lúc viết sách, ông Oppenheimer không biết đến), đó là: trong một bài báo khoa học quan trọng được công bố trên Tạp chí của Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Mỹ (một tạp chí khoa học rất uy tín trên thế giới) , một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Texas (Mỹ) và Viện Nghiên cứu Di truyền học[92] Trung Quốc cho thấy nguồn gốc của người Trung Hoa (và cả người Đông Á) rất có thể là do người từ Đông Nam Á di dân lên [11], chứ không phải ở Bắc di dân xuống Nam! Như vậy, cho rằng dân tộc Việt là xuất phát phát từ người Trung Quốc có thể là một ngộ nhận. Phải hiểu ngược lại th́ mới đúng![93]

 

3.3 - Liên-hệ Tŕnh-độ Văn-minh và Dân-số Bắc-Việt

            Buckminster Fuller, một nhà Toán-học và Địa-Lư, tác gỉả nhiều tấm bản-đồ “đồng-nhất tỷ-lệ”Dymaxion World Maps[94], tin rằng có thể t́m ra nguồn-gốc các nền văn-minh v́ sự liên-hệ đồng-thuận giữa tŕnh-độ văn-hóa, di-dân và mật-độ nhân-số[95]. Ông khảo-sát địa-lư thế-giới và đưa ra giả-thuyết là vùng duyên-hải Đông và Nam-Á với dân-số đậm đăc đă khởi-nguyên những nền văn-minh đầu-tiên của nhân-loại.

 

 

H́nh 53. Duyên-hải Đông và Nam-Á về diện-tích chỉ chiếm 5% địa-cầu nhưng có tới 54% nhân-loại (Buckminster Fuller’s Dymaxion World Map) - Lưu-ư địa-bàn dân Bách-Việt thời xưa chiếm tỷ-lệ lớn trong đó.

 

Địa-bàn dân Bách-Việt thời cổ không những bao bọc tới gần 40 phần trăm vùng "bờ nước châu Á" mà lại chiếm trọn khu-vực thuận-hảo nhất cho sự sinh-hoạt. Nếu thuyết Fuller chính-xác, nó cũng đưa đến các hệ-quả hiển-nhiên như sau:

- Bách-Việt một chủng-loại tương-đối đồng nhất có thể cũng là chủng đông đảo nhất nhân-loại trong các thiên-kỷ thứ 3 hay thứ 4 TTL. Ước-tính theo với tỷ-lệ của Fuller đưa ra, Việt-chủng có thể chiếm đến khoảng 15-20% nhân-số thế-giới. Hỗ-trợ cho thuyết này, thống-kê thời nhà Hán cho thấy đă có cả triệu người, chỉ nguyên tại châu-thổ sông Hồng bao quanh Vịnh Bắc-Việt (lúc đó c̣n hẹp) vào đầu công-nguyên.

- Vịnh Bắc-Việt và rộng hơn, Biển Đông của Việt-Nam là chiếc động-cơ một thời đă đẩy đưa cái nôi văn-minh loài người.

- Giống Việt có lẽ nắm vai tṛ độc-bá hàng-hải. Căn-cứ trên sử-liệu thời-kỳ đó người Á-Rập và Ấn-Độ chưa xuất-hiện trên biển.

            Hỗ-trợ cho thuyết này là

- Thuyết của Paul Rivet về ngôn-ngữ Đông-Nam-Á (mà nhóm quan-trọng nhất là Mon-Khmer/ Việt-Nam) đă được truyền-bá đi bằng đường hàng-hải đến Nhật-Bản, Tasmania, Địa-trung-Hải, Phi-Châu và Mỹ-Châu".?

 - Thuyết Ronald Provencher phỏng-đoán loài người đă xuất-hiện sinh sống tại Đông-Nam-Á từ 2 triệu năm trước đây.[96]

 

3.4 - Ư-Kiến Ông Nhượng Tống

            Ông Nhượng-Tông, khi dịch cuốn sách "Đại-Việt Sử-kư Toàn-thư Ngoại-kỷ" của Ngô-Sĩ-Liên và các Sử-thần đời Lê ra quốc-ngữ năm 1944, đă nhận-định rằng người Việt-Nam là giống dân bản-địa Bách-Việt về miền Biển. Lư-luận của học-giả này rất vững-chắc. Ông viết như sau:..

Dân Bách-Việt chia ở hai miền; miền núi và miền biển. Trong đám dân miền biển có nước Việt đă từng diệt nước Ngô ở thời Xuân-Thu. Quốc-gia thứ hai được tổ-chức do dân miền núi là nước Nam-Chiếu. Mạnh-Hoạch, người đánh nhau với Khổng-Minh, chính là vị anh-hùng nước này. Một quốc-gia thứ ba nữa thành-lập, đó là nước Việt-Nam chúng ta. Trong ba nước ấy th́ chỉ có nước ta c̣n đến ngày nay. Nước Việt, nước Nam-Chiếu đă lần lượt bị người Tàu chiếm-lĩnh và đồng-hoá.

Nói tóm lại, giống người Việt-Nam chúng ta ngày nay là giống thuộc ḍng Bách-Việt về miền Biển và vẫn ở đất này.[97]

 

H́nh 54. Một kiểu vẽ trang-phục người nước Việt thuộc giới quư-tộc thời Xuân-Thu

  

3.5 - Nơi khai-sinh nền Văn-Minh Nước và Văn-minh Thực-Vật

            Đất nước chúng ta nằm trong vùng nhiệt-đới gió mùa. Có nhiều ư-kiến khác nhau về ảnh-hưởng vị-trí đối với tŕnh-độ sinh-hoạt của dân ta.

            Một số nhà địa-lư và nhân-chủng-học đă cho rằng nền Văn-minh Việt-Nam đặt trên vị-trí "b́nh-nguyên nhiệt-đới"[98] Tuy vậy, văn-minh của chúng ta không hoàn-toàn mang tính-cách của một b́nh-nguyên nhiệt-đới v́ các lư-do như sau:

-Về vị-trí, lănh-thổ Việt-Nam không nằm sâu trong nội-địa mà lại nằm cạnh Biển Đông. Việt-Nam có lẽ là quốc-gia độc-nhất trong đất liền nhiệt-đới mà một phần duyên-hải lại mang tính-chất riêng-biệt của hải-đảo. Linda Norene Shaffer cho rằng trải dài suốt mấy trăm hải-lư, bờ biển lồi lơm Trung-Việt có đặc-tính rơ rệt của hải-đảo nhiều hơn các đặc-tính thuộc về lục-địa.[99]

-Về văn-hoá, người Việt-Nam hướng đến các hoạt-động về nông-nghiệp và hàng-hải. Dân ta không nhận ảnh-hưởng từ một nền văn-minh thạch đá nào như các dân-tộc khác trên những b́nh-nguyên nhiệt-đới như Ai-cập, Mễ-Tây-Cơ v.v...

Mặc dù tiến-bộ sớm nhất Đông-Nam-Á, người Việt-Nam không bao giờ theo đuổi chiều hướng xây cất đá khối nặng nề như các dân-tộc láng giềng như Nam-Dương, Khmer, Lào... 

            Học-giả Sumet Jumsai đă dùng ư-kiến của một học-giả đầy uy-tín như Buckminster Fuller để viết phần kết-luận cho quyển sách khá nổi tiếng của ông, cuốn "Naga: Cultural Origins in Siam and the West Pacific"[100]: Buckminster Fuller đă bị thuyết-phục và mong rằng v́ sự sống c̣n của nhân-loại trong tương-lai, con người nên noi theo chân-lư "nước" đó mà tiết-kiệm vật-liệu, năng-lượng v.v... (Nguyên-văn: He (Fuller) was convinced that future worlds will survive only if humans create more by using less-less material, less weight, less enegy, etc.)

            V́ những lư-do hiển-nhiên như vậy, các nhà khảo-cổ như Carl Sauer, Solheim đă tin-tưởng Đông-Nam-Á là nơi thuận-tiện nhất để con người có thể dễ-dàng chuyển-biến cây rừng cỏ dại thành rau trái trồng trọt được trong vườn. Chỉ nhờ những sự thuần-hoá đó, nhân-loại mới sản-xuất thêm nhiều thực-phẩm. V́ không c̣n phải nay đây mai đó, tốn kém quá nhiều thời-giờ để gom nhặt thực-phẩm một cách khó khăn, tiền-nhân bắt đầu định-cư lại. Cùng với nền văn-minh hàng-hải, một nền văn-minh thực-vật đă xuất-hiện rất sớm sủa.

            Lawrence J. Ma thuộc University of Akron nghĩ rằng giống người Homo-Sapien xuất-hiện rất sớm tại Đông-Nam-Á, sau này là tiền-nhân của chủng-loại Austroloid. Giáo-Sư Ma ước-lượng thổ-dân vùng này khởi sự gia-súc-hoá loài vật và trồng trọt từ 15,000 trước đây, tức là sớm sủa hơn vùng Tây-Nam Ấ-Châu (hay Bán-nguyệt Ph́-nhiêu) tới 5,000 năm[101].

            Nước Việt-Nam nằm trên một bán-đảo có nhiều vùng châu-thổ rất thấp ở về phía cực Đông Nam của lục-địa Á-Châu. Quanh năm khí trời ấm áp, nhiệt-độ tuy cao nhưng đều đều ít thay đổi. Ánh nắng mặt trời chan-hoà, vũ-độ thường-niên rất cao và bầu trời ít khi u-ám. Hai mùa gió Đông-Bắc, Tây-Nam đối-nghịch đem theo hai mùa mưa nắng rơ rệt. Trên có rừng ngăn chặn lối đi, dưới có biển mở rộng đường qua nhiều xứ sở. Địa-thế và môi-trường như vậy được kể là độc nhất, không có vùng đất nào trên thế-giới tương-tự như vậy.

 

3.6 - Giới-hạn của Giả-thuyết

            Chúng ta đă duyệt qua một số giả-thuyết về “địa-lư nhân-văn cổ-thời” để thấy các khía-cạnh sinh-hoạt khác nhau về văn-hóa thời cổ quanh vịnh Bắc-Việt. Lư-thuyết nào cũng chỉ tương-đối, có thể chính-xác hay không, bị phủ-nhận hay được công-nhận, lâu hay mau là tùy theo cái gọng ḱm nghiệt-ngă của thời-gian.

            Dù sao chăng nữa, trong một nhận-định chắc-chắn nhất chúng ta đồng-ư với hai Ông Nguyễn Quang Trọng và Tạ Chi Đại-Trường mà nhận rằng:  “… quả là liều mạng khi xem "Đông Nam Á là một trung tâm văn hoá lớn ngay từ thời cổ đại, trong đó Việt Nam là nơi hội tụ ở mức độ đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hoá khu vực", như một học giả trong nước đă viết”[102].

 

3.7 - Khoa khảo-cổ với Văn-minh vùng Duyên-hải Bắc-Việt 

Thời tiền-sử Việt-Nam thường được chia ra các thời-đại đồ đá (mới, cũ) và đồ kim-khí (đồng, sắt). Một bài văn tiêu-biểu[103] về khảo-cổ-học như sau đây:

Thời đồ đá cũ

Con người đă xuất hiện khá sớm trên đất Việt-Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đă t́m thấy dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ở Lạng Sơn và Nghệ An. Đặc biệt là ở hậu kỳ thời đá cũ (văn-hóa Sơn Vi cách ngày nay 10,000 - 23,000 năm), con người đă phân bố khá rộng và khá đông trên đất Việt-Nam. Đến văn-hoá Hoà B́nh - Bắc Sơn (khoảng 6,000 - 10,000 năm), con người đă biết dùng công-cụ cuội được ghè đẽo một mặt, bắt đầu biết mài ŕu đá, làm đồ gốm và có khả-năng đă biết đến trồng trọt sơ khai.

Thời đồ đá mới

Trong giai-đoạn này trên đất Việt-Nam, đă xuất hiện những nhóm cư dân tiền sử có đặc trưng văn-hoá là thuộc thời đại đá mới... Con người trong giai-đoạn này đă biết dùng những chiếc ŕu đá được mài nhẵn hoàn toàn, những chiếc ṿng tay đá được khoan rất khéo, và những đồ gốm có hoa-văn rất đẹp.

Thời đồ đồng

Con người đă biết đúc các công cụ, vũ khí và đồ trang-sức bằng đồng thau. Họ đă biết trồng lúa và chăn nuôi một số gia súc như trâu, ḅ, lợn, gà. Có ba nhóm văn-hoá phân bố ở ba khu-vực. Nhóm thứ nhất (văn-hoá Tiền Đông Sơn) phân bố trong các lưu vực sông Hồng, sông Mă và sông Cả. Nhóm thứ hai (văn-hoá Tiền Sa Huỳnh) phân bố ở vùng Nam Trung Bộ. Và nhóm thứ ba, phân bố trong lưu vực sông Đồng Nai ở miền Đông Nam Bộ.

ở miền Bắc-Việt-Nam, các văn-hoá tiền Tiền Đông Sơn tương ứng với giai-đoạn đầu của thời-kỳ Hùng Vương.

Thời đồ sắt

Các nhóm văn-hoá Tiền Đông Sơn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đă hội tụ lại thành một văn-hoá thống-nhất, đó là văn-hoá Đông Sơn, thuộc thời đại sắt sớm v́ một số công-cụ bằng sắt đă xuất hiện. Nhưng các chế phẩm bằng đồng thau tinh xảo là đặc trưng của văn-hoá này. Hiện-vật tiêu biểu là những chiếc trống đồng lớn có hoa-văn trang trí đẹp.

 

3.8 - Những Tài-liệu mới bất ngờ về Khảo-cổ

            Nhiều khám-phá mới về khảo-cổ xảy ra thường-xuyên và bất ngờ, có thể làm thay đổi những kiến-thức khoa-học trước đây. Chúng tôi kể hai khám-phá mới đây:

- Dụng-cụ bằng đá cổ tới 800,000 năm. Tài-liệu khảo-cổ vùng Đông-Nam-Á nói chung và vùng Vịnh Bắc-Việt nói riêng, chưa được hệ-thống-hóa một cách chính-xác. Viện Smithsonian đang góp công hoàn-thành nỗ-lực này.

Năm 1998, đoàn khảo-cổ của viện với sư hợp-tác của người địa-phương đă t́m thấy các dụng-cụ bằng đá cổ tới 800,000 năm tại vùng Tự-Tri Chuang sát biên-giới Việt-Hoa [104]. Vị-trí này không xa bờ Vịnh Bắc-Việt bao nhiêu. Khám-phá này rất có thể kéo lùi thời-đại Đồ Đá Việt-nam hàng mấy trăm ngàn năm xa hơn về quá-khứ chăng?! Dù sao sự kiện thật bất ngờ và làm… đảo lộn khoa-học.

 

Views of both sides of one of the hand axes found in southeast China. Dated to 800,000 years old, the tools show that the hominids in Asia were as skilled in shaping tools as those in Africa. (Science)

H́nh 55. Vi-trí t́m thấy Dụng-cụ Đồ Đá 800,000 năm.

 

- Đô thị thứ ba: Đ̣ Mè. Cho đến nay, sử sách Việt Nam mới chỉ công nhận Thăng Long và Phố Hiến là hai đô thị “quốc-tế” duy nhất ở Đàng Ngoài, chưa thấy tài liệu nào nhắc đến tên của một đô thị khác. Nhưng gần đây, một số nhà khảo cổ và sử học Việt Nam đang đặt giả thuyết về sự tồn tại của một đô thị thứ ba mang tên Domea, một địa-danh thương-càng nằm giữa cửa sông Thái-b́nh và Hải-pḥng ngày nay..

Một nhà hàng hải đã viết: “Ngày 13/2/1676, người Hà Lan xuống Domea để gửi đi thuyền hàng thứ hai của họ đến Batavia, chở đầy tơ sống, lụa… và những thứ khác đi Nhật Bản…”. Qua mô tả thì Domea không chỉ là nơi tạm trú của người ngoại quốc mà còn như một trạm trung chuyển và tập kết hàng hóa. Từ đây, các chuyến hàng mới đi Thăng Long và Phố Hiến, sang Batavia và Nhật Bản, trở lại Hà Lan và Anh…

Qua các tài liệu mà Phó Giáo-Sư Nguyễn Quang Ngọc thu thập phải chăng Domea (Đ̣ Mè) chính là hải-cảng tiền thân của Hải Phòng ngày nay?[105]

Nhân khám-phá này, chúng ta thấy cũng nên lưu-tâm để hy-vọng một “ngày đẹp trời” nào đó t́m lại được “hải-cảng huyền-thoại Cattigara” ngày xưa.

H́nh 56. Đây là bản đồ do Jacques Nicolas Bellin, nhà nghiên cứu bản đồ người Pháp vẽ năm 1755, dựa trên bản gốc của một nhà hàng hải người Anh. Cacho (Kẻ Chợ/Thăng-Long) phía trên, Phố Hiến (Hean) ở giữa. Domea ở  gần cửa sông.

 

3.9 - Sinh-hoạt Lâu Đời dọc Ven biển

Nhiều chứng-liệu cho thấy những người Việt cổ đă có mặt từ lâu đời ở khắp nơi dọc ven biển Vịnh Bắc-Việt.

Giáo-sư Lê-Bá Thảo tóm tắt một số sinh-họat như sau:

Trên các đảo và quần-đảo, các hoạt-động kinh-tế của con người trở nên đa-dạng hơn: ngoài hoạt-động nông lâm nghiệp quen thuộc (trồng lúa nước, hoa màu, cây ăn quả và chăn nuôi), đă có hoạt-động đánh cá, đóng tàu thuyền đi biển xa và tất nhiên cả hoạt-động thương mại. Hai hoạt-động sau tỏ ra nhộp nhịp hơn cả. Dân nước Văn-Lang[106] (năm 258 trước Công nguyên trở về trước) từ xưa đă làm nghề chài lưới như đă được chép trong sử cũ, c̣n hoạt-động thương mại diễn ra có thể chậm hơn, ít nhất là xét về mặt thương mại quốc tế.

Người ta thường hay nêu ra hai cảng thương mại quốc tế tiểu biểu là Phố Hiến (ở Hưng Yên) và Hội An (thuộc Quảng Nam) nhưng cũng cần biết rằng ngay từ đầu thế kỷ thứ XI, thương cảng Vân Đồn ở khu-vực Quảng Yên đă có những hoạt-động xuất-nhập cảng rộn rịp, không những với những nước trong khu-vực, nhất là với Trung Hoa, mà c̣n với tàu buôn một số nước phương Tây (thí-dụ với Tây Ban Nha).

Các triều đại vua chúa ngày trước đều chú ư bảo vệ vùng biển như xây đắp đồn lũy (thí dụ như thành nhà Mạc ở Cát Bà, Xích Thổ, Cẩm Phả, đồn Ngọc Vừng trên đảo cùng tên dưới thời Minh Mạng), các đội chiến thuyền, kể cả hạm đội tàu đồng như dưới thời Minh Mạng.

Tất nhiên, việc định cư và hoạt động kinh tế ở dải đất duyên hải, trên các đảo ven bờ không dễ dàng như ở trong nội địa, Ở các quần đảo xa bờ, sinh-hoạt lại c̣n khó khăn gấp bội. Thiên nhiên vùng biển cũng có lúc trời yên gió lặng nhưng phần lớn thời gian trong năm là sóng to và băo tố. Riêng khoảng cách và độ sâu cũng đă là những trở ngại đối với sự di chuyển của con người. Do đó việc chinh phục vùng biển c̣n phải tiếp tục từ đời này sang đời khác. Ngày nay, nhiệm vụ này càng phức tạp hơn và rơ ràng Nhà nước Việt Nam cần phải có chiến lược thích hợp[107].

Giáo-Sư Thảo nhấn mạnh lời cảnh-báo về sự quản-lư vùng “hải-phận đặc-quyền kinh-tế” ngoài biển như sau: “Một vùng biển rộng gấp ba lần diện-tích đất liền, nhiều tài-nguyên các loại đang chờ có sự quản lư và khai-thác hợp lư.”

 

 

H́nh 57. Họa phẩm Hiếu-Ức-Quốc xưa nhất về dân tộc Đại-Việt (1078) – Đây là một họa phẩm danh tiếng của Lư-Công-Lân tức Lư-Long-Miên, người đất Chu, đại-thần đời nhà Tống, miêu họa các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc, có nghĩa là nước của những người có ḷng hiếu thảo, tức là nước Đại-Việt của ta vậy [108]

Bức tranh nầy được lưu giữ tại viện bảo tàng Emile Etienne Guimet ở Paris

 

3.10 - Những Đô-thị cạnh bờ Nước Vịnh Bắc-Việt

Theo Giáo-sư Trần-Quốc-Vượng, tính-chất bán-đảo của Việt-Nam nổi bật nhất Đông-Nam-Á. Ông mô-tả các đô-thị cổ Việt-Nam đều có một đặc-điểm chung là nằm giữa những tuyến đường thủy:

- Việt-Tŕ là đô-thị cổ nhất Việt-Nam, mà vùng chung quanh đó được gọi là Đất Tổ, xuất-hiện vào thế-kỷ thứ VII trước công-nguyên. Việt-Tŕ, thành-phố nằm trên ngă ba các con sông Hồng-Hà, Đà-Giang và Lô-Giang, ngay trong thời-đại các vua Hùng đă trở thành đô-thị dịch-trạm với hệ-thống thuyền mảng dưới sông và hệ-thống voi - gùi trên đường bộ xuyên sơn.

- Cổ-Loa, trung-tâm của nước Âu-Lạc, nằm giữa vùng châu-thổ, là nơi hội-tụ của nhiếu đường sông rạch, vị-trí có nhiều mặt ưu- thế hơn Việt-Tŕ, nhất là gần biển hơn.

- Sau cuộc xâm-lược của Hán-Vũ-Đế, các cảng Luy-Lâu rồi Long-Biên ở hạ-lưu sông Hồng và Lạch-Trường ở hạ-lưu sông Mă đă thành-h́nh. Các đô-thị này đều gần biển và là những cảng thị sầm uất và lớn lao vào hạng nhất nh́ trên biểnĐông.

-Hà-Nội, đi từ một Thăng-Long truyền-thống với mạng lưới cơ-bản là đường thủy, có phương-tiện giao-thông cơ-bản là thuyền. Với lưới sông thông-thương với nhau, giao-thông đường thủy rất thuận-lợi. Thuyền từ sông Đáy vào sông Nhuệ rồi "lên Kinh" bằng sông Tô hoặc ngược lại từ quân-cảng Đông-Bộ-Đầu và thương-cảng ở cửa sông Tô trên sông Nhị, qua sông Tô, sang sông Nhuệ rồi xuống sông Đáy mà ra biển vào Nam, hay xuôi sông Đuống, sông Dâu xuống Lục-Đầu-Giang mà ra Hải-Đông, Hạ-Long biển Bắc...

Ta có thể gọi Hà Nội là thành-phố sông. Nói đúng hơn, Hà Nội cổ là thành-phố sông hồ: Hồ Tây, Hồ Gươm, Thuyền-Quang, Bẩy Mẫu v.v...[109]

Kinh-đô Thăng-Long là trung-tâm thương-mại quốc-tế lớn nhất của Việt-Nam và cũng của Đông-Nam-Á suốt thời trung-cổ. Dân-số các đô-thị loại này tăng lên rất nhiều khi giới thương buôn và hành thủy ngoại-quốc ghé Tàu cặp bến, đặc-biệt tùy theo mùa gió thuận-tiện. Theo tài-liệu của Samuel Baron viết lại vào đầu thế-kỷ 18, đường phố Thăng-Long rất đông đảo trong những phiên chợ vào các ngày mùng một và ngày dằm âm-lịch. Một số du-khách ngoại-quốc đă nghĩ rằng kinh-đô nước-Việt đông người nhất thế-giới vào những ngày này. Muốn đi 100 bước cũng phải tốn mất nửa giờ.[110]

Giáo-sư Peter Bellwood nhận xét về phát-triển hải-thương của người Việt-Nam, ước-lượng dân-cư kinh-đô nước ta vượt con số 100,000 người trong các thế-kỷ 15 đến 18, sau khi nhà Lê mở rộng tường thành tới 10km đường kính.[111]

Trước Thăng-Long, thủ-đô nước ta đă đóng tại Hoa-Lư. Khi quốc-gia vừa tái-lập được nền tự-chủ, nhà Đinh đă đóng đô ngay trên bờ con sông Hoàng-Long-Giang, từ nơi này chạy ra Biển Đông chỉ chừng hơn mười hải-lư...[112] Theo cuốn sách Đại-Việt Sử-kư Toàn-thư của Sử-gia Ngô-Sĩ-Liên, thương-thuyền thuộc nhiều nước cặp bến Hoa-Lư buôn bán tấp nập. Hải-thương tiếp-tục bành trướng đúng như truyền-thống ngàn đời của dân-tộc.

 

3.11 - Truyền-thống làng xóm ven bờ sông.

Một trong những nét rơ rệt của nền "văn-minh nước" t́m thấy ở Việt-Nam là tổ-chức làng xóm ven bờ nước.

            Từ đời thượng-cổ, những xóm làng Việt-Nam đều nằm dọc theo hai bờ sông, kinh, rạch. Trong đồng-bằng sông Hồng, sông Mă; các làng có lũy tre xanh vây quanh nhưng vẫn mở xuống bến nước ven sông[113]. Phần lớn các đô-thị nước ta đă đi từ sự phát-triển vượt bực của những làng xă có đường thông-thương tiện-lợi ra biển.

            Làng nổi tiếng nhất trong ngành khảo-cổ là Đông-Sơn. Làng này nằm bên bờ sông Mă và cận kề Biển Đông, ngày xưa là một bến cảng sầm uất. Từ vùng Đông-Sơn / Lạch Trường, nhiều Tàu thuyền Lạc-Việt đă khởi-sự những chuyến hải-hành vượt Biển Đông, đi thật xa, hàng trăm hàng ngàn hải-lư.

            Một loại làng đặc-biệt quanh Vịnh Bắc-Việt là làng thủy-cơ. Làng này không giống các làng trên cạn mà được thành-lập dưới nước. Những làng này gồm nhiều nhà nổi trên mặt sông hay hồ. Làng thủy-cơ c̣n gọi là làng Vạn, làng Chài.[114] Dân-cư các làng này làm nghề chài lưới hay sinh sống bằng các nghề-nghiệp khác liên-hệ đến sông nước.[115] 

            Hai ông Cửu-Long-Giang và Toan-Ánh đă trích-dẫn tài-liệu của học-giả Đào-duy-Anh viết về hệ-thống hành-chấnh của các làng thủy-cơ trong tiền-bán thế-kỷ 20 trở về trước như sau:

            Theo nguyên-lư th́ làng chài nào cũng phụ-thuộc với một xă thôn trên cạn. (Trong trường-hợp này, làng chài chỉ là một thôn của làng khác).

            Thực ra làng chài vốn là một làng riêng mà nhà nước chỉ bắt theo về một xă thôn trên đất để tiện việc thu thuế cho nên những dân thủy-cơ tuy phải đóng sưu-thuế cho Lư-trưởng mà vẫn không có liên-lạc ǵ với xă thôn ấy cả. Làng Thủy-cơ thường là một đơn-vị hành-chánh độc-lập có đủ tổ-chức như một xă thôn, hoặc thống-thuộc vào một tổng với các làng ở cạn hoặc nhiều làng họp thành một tổng thủy-cơ riêng. (Việt-Nam Văn-hoá Sử-cương, Đào-duy-Anh, NXB Bốn-Phương, Saig̣n, 1961.)

            Làng thủy-cơ Việt-Nam mang tính-chất lưu-động và có nhiều nét đặc-thù như các tổ-chức thôn-xóm của Thuyền-nhân (Boat People) bên Trung-Hoa hay các bộ-lạc Hải-du (Sea Nomads) thuộc các hải-đảo nằm về phía Nam của Biển Đông.

 

3.11 - Dân số Việt Nam

Tài-nguyên chính của một nước là dân-chúng. Dân số Việt Nam tăng khá nhanh. Từ đầu thế kỷ thứ 20, dân số nước ta khoảng 19 triệu người. Đến giữa thế kỷ, lên đến 25 triệu người. Cuối năm 1988, dân số Việt Nam tăng tới 67 triệu người, mật-độ trung-b́nh là 204 người trên một cây số vuông. Cuối năm 1999 dân số Việt Nam là 78,7 triệu. người. Hiện nay, chắc chắn dân chúng ta đă ngoài 80 triệu người.

!

H́nh 58. Bản-đồ ghi đia-danh các Châu ngày trước

 

Dân-cư Việt Nam phân-phối không đồng đều, phần lớn đồng bào ta tập trung ở những miền có nhiều tài-nguyên thiên-nhiên dễ khai-thác và ở các đô thị, thành-phố, các trung-tâm kỹ nghệ... Dân ta sống gắn bó với ruộng vườn, làng mạc nên tỷ số đồng bào ở nông thôn bao giờ cũng cao, ước lượng có thể lên tới 85% dân số.[116]

 

H́nh 59. Cấy lúa trên Ruộng nước- H́nh-ảnh trên tờ giấy “cinq piastres” của Banque de l’Indochine, lưu-hành đầu thế-kỷ 20.

 

 

 

H́nh 60. H́nh ảnh về dân Đông-Nam-Á do Âu-châu tưởng-tượng lúc xưa như: - Người sống trên cây - Người đảo Andaman một chân - Người Đông-Dương khi chết dược buộc vào thân cây cho chim ăn thịt…

 

3.12 - Kiểm-soát dân-số và di-dân nội địa

Dân-chúng sinh sống quanh Vịnh Bắc-Việt chiếm tới 55% dân-số Việt-Nam. Trong đó, đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung dân cư đông nhất cả nước với 83% là dân nông thôn và 17% là dân đô thị. Mật độ trung b́nh toàn vùng là 335 người/km2 nhưng mật độ thành-thi đă lên đến trên 1000 người/km2 và vẫn có chiều-hướng gia-tăng. Riêng Hà-Nội có mật độ dân số cao nhất cả nước[117] là 2,800 người/km2, đây cũng là một trong những vùng có mật độ dân số cao nhất thế giới

Theo thống-kê mới đây, Việt Nam đứng hàng thứ 13 về dân số trong các quốc gia trên thế giới và đứng thứ nh́ ở khu vực Đông Nam Á. Tuy vậy dân số của Việt Nam bắt đầu là vấn đề lớn đối với quốc-gia. Mức sống người dân c̣n nghèo đói mà tài-nguyên thiên-nhiên bắt đầu cạn kiệt. Phải cần có một cuộc cách-mạng về chính-trị và cải-tiến kinh-tế th́ mới mong tiến-bộ.

Theo Tổng cục Thống kê (TCTK) th́ dự báo di cư quốc tế bằng (số) không. Nhưng di cư trong nước sẽ có tác động đáng kể đến mức tăng giảm dân số, đồng thời sẽ tác động mạnh đến chính sách phát triển kinh tế giữa các vùng. Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ di cư giữa các vùng thời kỳ 1984-1989 là 19,3 phần ngh́n và vào thời kỳ 1994-1999 là 19,4 phần ngh́n. Trung b́nh cứ trong 50 người th́ có 1 người chuyển nơi thường trú. Trong cả 2 thời kỳ, chỉ có 2 vùng nhận dân di cư là Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Những năm gần đây, di dân chủ yếu theo 2 ḍng: Từ nông thôn đến thành thị và từ các tỉnh phía bắc, Bắc Trung Bộ vào Tây Nguyên. Dự báo mức di cư của thời kỳ 1994-1999 sẽ tiếp tục cho các thời kỳ từ 1999-2024.

 

H́nh 61. Theo một chương tŕnh được sự tài trợ của Quỹ Hoạt động dân số Liên Hợp Quốc, kết quả dự báo là đến 2024, tỷ lệ tăng dân số VN sẽ cần giảm xuống c̣n 0,82%/năm.

 

Di dân diễn ra chủ yếu dưới tác động kinh tế xă hội, vừa chịu tác động của quy luật khách quan vừa chịu tác động của chính sách dân số. Tuy nhiên, gần đây di dân theo khuynh hướng tự do diễn ra khá phổ biến và gây áp lực dân số rất nặng đối với khu vực thành thị. Theo kết quả thống kê, trong thời kỳ từ 1994-1998 dân số thành thị đă được cộng thêm 1,4 triệu người. Từ 1999-2024, dự báo dân số thành thị b́nh quân mỗi năm tăng 556 ngh́n người, tức là từ 17,9 triệu người năm 1999 lên 31,8 triệu người năm 2024. Nếu đời sống kinh tế nông thôn được nâng cao, giảm bớt cách biệt với thành thị, sẽ có tác động đáng kể đến việc phân bố dân cư. Mặt khác, di dân tự do giữa các vùng gần đây gia tăng, ảnh hưởng đến chính sách kinh tế, quy hoạch cơ sở hạ tầng và tác động đến môi trường tự nhiên ở nhiều khu vực. Đây cũng là một mặt trái của di dân, cần được quan tâm giải quyết.[118]

 

 

H́nh 62. Mật-độ dân-số các tỉnh Bắc Việt.

 

3.13 - Cơ-nguy nạn nhân-măn

Cơ-nguy nạn nhân-măn rất cao tại đồng bằng Sông Hồng. Theo sự phỏng-định của Viện Dân-Số th́ trong ṿng 20 năm sắp tới, dân-số trong vùng này sẽ tăng 38% nếu không có biện-pháp giảm-tốc. 40 triệu người sinh sống trong một vùng đất không c̣n có thể mở rộng hay khai-phá thêm, là một vấn-đề hiện chưa có giải-pháp dứt-khoát.

 

 

 

Dân số DBSH

năm 2000

29,000,000

năm 2020

40.000.000

Mức tăng dân số

Trung-b́nh

1,8 %/năm

Thành-thị

9,8%o/năm

Dân số thành thị

(số liệu mới nhất)

5 triệu người 

10 triệu người


Diện tích đất

86.660 km2

Mật-độ dân tăng 38%

 

H́nh 63.  Một vài con số phỏng-định về sự gia-tăng dân số tại Đồng-bằng Sông Hồng (DBSH)

 

3.14 - Nếp sinh-hoạt truyền thống làng xă

Từ xưa, tổ-chức hành chánh của nông thôn Việt Nam

đă là những đơn vị sinh hoạt có tính cách tự trị và dân chủ. Căn bản của xă-hội Việt nam là gia đ́nh, thôn xóm. Nhiều thôn xóm họp thành làng hay xă, chung quanh có lũy tre bao bọc, trong đó, người dân tự bầu lấy một ban Kỳ Mục hay Hương Chức, và sống

với nhau theo một ước lệ tự trị. Đây là một h́nh thái sinh hoạt đặc biệt của văn minh Việt Nam.

Cho dù thể-chế áp-đặt hay chính-quyền đổi-thay, làng xă Việt Nam vẫn giữ lề lối sinh hoạt xưa. Phần đông dân chúng sống bằng nghề nông, đánh cá, chăn nuôi, trồng tỉa, thủ công-nghệ.... Dân-cư vùng thành thị sống bằng các hoạt-động thương măi, công kỹ nghệ, công tư chức, và các nghề tự-do.

Trên các miền thượng du và cao nguyên, đồng bào ta vẫn sống tụ hội trong những buôn làng: Đồng bào Thái quây quần trong miền Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Kay, Sơn La, Lai Châụ Đồng bào Nùng ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cáỵ Đồng bào Mán ở vùng núi Ba V́, Tam Đảo, Móng Cáỵ Đồng bào Mèo ở Hà Giang, Lào Kay, Lai Châu, Sơn La. Đồng bào Mường ở các tỉnh Sơn Tây, Ḥa B́nh, Ninh B́nh, Hà Đông, Thanh Hóa[119].

 

3.15 - Quảng-Ninh và việc Hoà-nhập các Dân-tộc

Nước chúng ta có tới 54 dân-tộc khác nhau nhưng cuộc sống chung rất ḥa hợp và thoải mái. Tỉnh Thanh-Hóa pha trộn nhiều màu sắc nhất vùng duyên-hải với 32 dân-tộc. Ngay ở vùng biên-giới màu-sắc cũng ḥa-hợp. Chúng tôi xin đưa t́nh-trạng nhân-văn Quảng-Ninh như một biểu-tưởng làm mẫu cho việc hoà-nhập này:

Dân số Quảng Ninh có mật-độ b́nh quân 160 người/km2 nhưng phân bố không đều. Vùng đô thị và các huyện miền tây rất đông dân, thành-phố Hạ Long 1.236 người/km2, huyện Yên Hưng 403 người/km2, huyện Đông Triều 354 người/km2. Trong khi đó, huyện Ba Chẽ 27 người/km2, Cô Tô, Vân Đồn 70 người/km2.

Về dân-tộc, Quảng Ninh có 21 thành phần dân-tộc, song chỉ có 6 dân-tộc có hàng ngh́n người trở lên, cư trú thành những cộng đồng và có ngôn ngữ, có bản sắc dân-tộc rơ nét. Đó là các dân-tộc-Việt (Kinh), Dao, Tày, Sán D́u, Sán Chỉ, Hoa. Tiếp đến là hai dân-tộc có dân số hàng trăm người là Nùng và Mường. Mười bốn dân-tộc c̣n lại có số dân dưới 100 người gồm: Thái, Kh'me, Hrê, Hmông, Êđê, Cờ Tu, Gia Rai, Ngái, Xu Đăng, Cơ Ho, Hà Nh́, Lào, Pup cô. Đây là những người gốc các dân-tộc thiểu số từ rất xa như từ Tây Nguyên theo chồng, theo vợ là người Việt (Kinh) hoặc người các dân-tộc khác về đây sinh sống, b́nh thường khó biết họ là người dân-tộc thiểu số.

 

H́nh 64. Hinh-ảnh Thiếu-Nữ Kinh và một người dân thiểu-số

 

Trong các dân-tộc đông người, người Việt (Kinh) chiếm 89,2% tổng số dân. Họ có gốc bản-địa và nguồn gốc từ các tỉnh, đông nhất là vùng đồng-bằng Bắc Bộ. Họ sống đông đảo nhất ở các đô thị, các khu công-nghiệp và vùng đồng-bằng ven sông, ven biển. Do có số người chuyển cư đến từ rất nhiều đời, nhiều đợt nên Quảng Ninh thực sự là nơi "góp người". Sau người Việt (Kinh) là các dân-tộc thiểu số có nguồn gốc từ lâu đời. Người Dao có hai nhánh chính là Thanh Y, Thanh Phán, thường cư trú ở vùng núi cao. Họ c̣n giữ được bản sắc dân-tộc trong ngôn ngữ, y phục, lễ hội và phong tục, một bộ phận vẫn giữ tập quán du canh du cư làm cho kinh-tế văn-hoá chậm phát-triển.

 

 

H́nh 65. Các dân-tộc Miền Bắc Việt-Nam.

Lưu-ư dân Việt (người Kinh) sống tập-trung ở miền duyên-hải

 

Tại Tiên Yên, một huyên có lịch sử văn hoá lâu đời, tín ngưỡng dân gian với tục thờ tổ tiên là chủ yếu. Xưa ở Tiên Yên có nhiều tục lệ, đám cưới có hát đối đáp giữa hai họ, nhà trai hát mua hoa, mua chim, nhà gái hát bán hoa, bán chim. Lời hát mua bán ư nhị, trữ t́nh. Các dân tộc thiểu số có nhiều phong tục riêng. người Sán Chay có hát xoọng cô, giao duyên nam nữ, Người Dao có nhiều điệu kèn, có múa trong nghi lễ cúng bái. Người Tày Nùng có hát Sli, hát then.

Người Tàu, người Sán D́u, Sán Chỉ ở vùng núi thấp và chủ-yếu sống bằng nông-nghiệp với nghề trồng cấy lúa nước. Người Hoa gồm nhiều dân-tộc thiểu số từ miền Nam Trung Quốc di cư sang từ lâu bằng rất nhiều đợt. Một số ít là Hoa Kiều sang buôn bán làm nghề thủ công ở các thị trấn miền Đông, c̣n phần lớn sống ở nông thôn, sản-xuất nông-nghiệp, đánh cá, làm nghề rừng. Hiện nay, các dân-tộc thiểu số - chủ nhân của miền núi - đang có những tiến-bộ rơ rệt.  

 

 

H́nh 66. Các Tỉnh duyên-hải Vịnh Bắc-Việt

 

3.16 - Quảng Ninh

Diện-tích : 5,938 km2

Dân số (1999): 1,004,461 người.

Nói chung, mức sinh-hoạt của dân-chúng các tỉnh duyên-hải Việt-Nam cao hơn đồng-bào của ta trong nội-địa. Qua mấy thập-niên rồi, tỉnh Quảng-Ninh đáng kể nhất trong các tỉnh duyên-hải v́ đă đạt nhiều tiến-bộ trên phương-diện nhân-sinh.

So với các tỉnh nằm trên tuyến biên-giới phía bắc, Quảng-Ninh có ưu-thế lớn mà các tỉnh khác không có. Quảng Ninh có bờ biển dài 250 km, với 32 đảo lớn có dân và gần 2,000 đảo nhỏ. Tỉnh có 10 huyện, 2 thị xă và một thành-phố trực thuộc là thành-phố Hạ Long. Dân số, sống ḥa-hợp với 8 dân-tộc khác nhau, như: Tày, Dao, Sán D́u, Sán Chỉ, Hoa...

Quảng-Ninh có một vị-trí chiến-lược quan-trọng trong quốc-pḥng và trong nền kinh-tế của đất nước. Tỉnh có tiềm-năng kinh-tế đa-dạng và phong-phú. Than đá là nguồn tài-nguyên chính, chiếm 90% số lượng trên cả nước. Từ lâu Quảng Ninh đă là khu công-nghiệp than lớn của cả nước, trữ lượng khoảng 3 tỉ tấn. Mỗi năm khai-thác được 6 - 7 triệu tấn than. Ước-lượng với mức khai-thác này, than sẽ đủ cung-cấp trong nhiều thế-kỷ nữa mới hết.[120] Ngoài than, Quảng Ninh có ưu-thế về vật-liệu xây-dựng như đá vôi, đất sét, cát, đá Pyproxit... để sản-xuất gạch, ngói, xi măng, đáp ứng nhu-cầu nguyên, nhiên-liệu cho nhiều ngành công-nghiệp trong cả nước.

Quảng-Ninh không những có than vàng đen của ngành công-nghiệp, lại có biển với nhiều băi tôm cá nổi tiếng cùng hơn ngh́n ḥn đảo tuyệt đẹp mà khách xa đến thăm đều ngẩn ngơ xúc động. Trên các đảo có nhiều loài gỗ quư như Sến, Lim xanh, Táu lá nhỏ, Sao hồng gai, Gội nếp… Quảng-Ninh đang trên đường xây-dựng thành một tỉnh mạnh về quân sự, giàu có về nông-nghiệp, một tỉnh lớn vào bậc nhất nước ta.[121]

Từ Mũi Ngọc đến Đầm Hà, bờ biển cạn. Có những cảng cá như Mũi Ngọc, Tiên Yên, Hà Cối, Đầm Hà…nhưng tàu lớn không cập bến được. Khi nước triều xuống ta thấy nhiều băi phù-sa tích-tụ trải rộng, bề mặt phẳng ĺ với những bụi ô rô và sú vẹt. Trong tương-lai, những băi phù-sa này có thể sử-dụng làm đất nông-nghiệp.

Xa hơn về phương Nam, bờ biển Cẩm Phả, Hồng Gai có độ sâu đáng kể. Ở đây có những bến cảng thiên-nhiên, tàu lớn cặp bến lấy than. Trong tương-lai, tàu trọng-tải 40,000 tấn có thể ra vào an-toàn cảng Cái Lân. Tổng-số hàng-hóa ra vào các cảng Quảng-Ninh đă lên tới 7 triệu tấn vào năm 1998.

Quảng Ninh có thuận-lợi về kinh-tế cảng biển, trong đó có cảng nước sâu Cái Lân, tương-lai là một trong những cảng quan-trọng của quốc-gia. Trong giai-đoạn 1, ba cầu tàu được xây-dựng trước, dành cho tàu có sức chở 40 ngh́n tấn cập cảng năm 2002.

Đất nông-nghiệp có trên 74,000 ha, trong đó 35,000 ha đất canh tác, sản-xuất mỗi năm 150 - 160 ngàn tấn lương thực, đáp ứng cơ bản nhu-cầu khu-vực nông thôn. Đất lâm nghiệp có 390,000 ha, tỉ lệ che phủ của rừng đạt trên 23%.

Miền duyên-hải trải dài với nhiều đảo lớn nhỏ bao bọc bên ngoài rất nổi tiếng về cảnh đẹp và phong-phú về hải-sản.Quảng Ninh là vùng du-lịch nổi tiếng, có Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản thiên-nhiên của thế-giới.

 

 

H́nh 67. Bản-đồ tỉnh Hải-Ninh

 

Trước đây muốn ra đảo Vân-Đồn, người ta phải dùng phà nhưng v́ khoảng cách khá xa, lại gặp sự phức-tạp của thủy-triều, nên việc đi lại rất khó-khăn. Ngày 20-4-2002, cầu Vân Đồn được khởi công xây-dựng - nối thị trấn Cửa Ông với huyện đảo Vân Đồn. Cầu Vân Đồn với chiều dài 3.427m rộng 12 m, sẽ là cầu lớn nhất của tỉnh Quảng-Ninh. Cầu dự-kiến hoàn-thành vào tháng 7-2004.[122]  

 

 

H́nh 68. Vị-trí các cảng thương-mại và cảng than tỉnh Hải-Ninh

 

3.17 - Hải-Pḥng

Diện-tích: 1,503 km2

Dân số (1999): 1,672,992 người.

Hải-Pḥng là thành-phố lớn thứ ba của Việt-Nam sau Sài-G̣n và Hà-Nội, đồng thời c̣n là cảng lớn quan-trọng thứ hai trong cả nước. Số lượng hàng thông qua cảng trung-b́nh hơn 27 ngh́n tấn/ mỗi ngày.

 Được biết đến như là một thành-phố Hoa phượng đỏ, Hải-Pḥng c̣n rất nhiều ngôi nhà xây-dựng theo kiểu Pháp. Đây là một thành-phố nhỏ và xinh xắn, khách du-lịch có thể đi dạo khắp thành-phố, dễ dàng mua sắm và thăm viếng những điểm du-lịch nổi tiếng:

- Đ́nh Hàng Kênh nằm ngay trong thành-phố. Bên trong thờ thành hoàng làng và Ngô Quyền, vị anh-hùng dân-tộc chống lại quân xâm-lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.

- Chùa Dư Hàng là một trong những ngôi chùa lâu đời nhất vùng này. Chùa được xây-dựng cách đây 3 thế kỷ. Ngôi chùa được trang trí rất đẹp và c̣n lưu giữ lại được nhiều đồ vật cổ,

- Sông Bạch Đằng là con sông nổi tiếng trong lịch-sử Việt Nam, đó là nơi dân-tộc-Việt Nam đă 3 lần đánh bại quân xâm-lược phương Bắc. Trong đó chiến thắng thứ ba đánh thắng quân Nguyên Mông được cả thế-giới biết đến. Nhiều cọc gỗ nhọn đă được t́m thấy tại đây.

- Băi biển Đồ Sơn cách Hải-pḥng 20km là băi biển khá đẹp có băi cát trắng và mịn. Các khách sạn ở đây tương đối tốt có thể đáp ứng được nhu-cầu của du-khách.

 

 

H́nh 69. Bản-đồ Hải-Pḥng

 

 

H́nh 70. Tàu Bạch Đằng 6,600 tấn vừa hạ-thủy

 

Kỹ-nghệ đóng tàu của Hải-Pḥng khá tiến-bộ. Năm 2002, nhà máy đóng tàu Bạch Đằng đă hoàn-tất việc đóng chiếc tàu vận-tải thứ ba có trọng-tải 6,500 tấn theo tiêu-chuẩn đăng-kiểm của Nhật-Bản. Tiếp tục là một con tàu 11,500 tấn. Dự-trù trong tương-lai, xưởng này sẽ kiến-trúc và sửa-chữa thương-thuyền lớn tới 30,000 tấn [123]. Người Nhật-bản cũng tài-trợ việc nâng-cấp hải-cảng Hải-Pḥng trong ngân-quỹ OECF (Overseas Economic Co-operation Fund).

Sự gia-tăng lưu-lượng trên tuyến Vân-Nam / Hà-Nội / Hải-Pḥng sẽ làm cho các hải-cảng Hải Pḥng, Cái Lân thêm bận rộn[124].

 

 

H́nh 71. Một kiến-trúc kiểu Pháp tại Hải-Pḥng

 

Hải-Pḥng có một huyện-đảo là Cát Hải, nằm về phía Đông thành-phố Hải Pḥng, cách nội thành 22 km. Tổng diện-tích (kể cả rừng ngập mặn): 322,3 km2 (chỉ tính phần đă xác định) Dân số: 27,336 người.

Cát Hải có đường xuyên đảo Đ́nh Vũ - Cát Bà; có bến Gót, bến Bèo là những đầu mối giao-thông chính bằng đường thủy đưa đón khách Hải Pḥng - Cát Bà. Trên đảo có Vườn Quốc gia Cát Bà.[125] Hướng phát-triển kinh-tế của huyện đảo Cát Hải là nghề cá, nghề muối, chế-biến hải-sản, du-lịch và dịch vụ. Một số ngành tiểu thủ công nghiệp trồng lúa, hoa màu, chăn nuôi. Cát Hải có đặc sản nước mắm ngon nổi tiếng.

 

3.18 -Thái B́nh

Diện-tích: 1,509km2
Dân số (1999): 1,785,600 người.

Cư dân của tỉnh sinh sống ở thị xă Thái B́nh và các huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Đông Hưng, Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Thụy. Mật-độ toàn-tỉnh vào hàng cao nhất nước, 1,2000/km2.

 

 

H́nh 72. Bản-đồ tỉnh Thái-B́nh

 

 Thái B́nh là một trong những tỉnh đặc-biệt nằm quanh Vịnh Bắc-Việt v́ không có đồi núi. Tuy vậy, Thái-B́nh có bờ biển dài 53 km, 5 cửa sông lớn và nhiều băi cát dài thoai thoải, nước trong xanh. Những khoáng-sản trầm-tích tiến xa ra biển, những mỏ dầu, khí đốt hấp dẫn giới khoa-học và các nhà kinh-tế. lưu-tâm. Thái B́nh không có “sơn-hào”, nhưng “hải-vị” rất đáng kể với trên 200 loài thủy-sản có giá trị kinh-tế cao. Ngoài ra, gần 2500 đầu chim quí hiếm là niềm vui bất tận cho các dịch vụ săn bắt, giải trí.[126]

Khu bảo-tồn thiên-nhiên Thái Thụy có ranh-giới phía nam là sông Trà Lư và ranh-giới phía bắc là sông Thái B́nh. Khu bảo-tồn có các con sông như sông Diêm Hồ chảy ra biển tại khu-vực giữa sông Trà Lư và sông Thái B́nh. Phía Nam của sông Thái B́nh có các băi bồi lớn được tạo bởi các trầm-tích lắng đọng. Phía tây khu bảo-tồn là các băi cát trũng tiếp giáp với sông Trà Lư, ở đó có các đầm canh tác thủy-sản.

Từ những thập-niên 1960, 1970; người ta đă hy-vọng t́m thấy dầu khí ở Thái-B́nh. Dầu thô chưa t́m thấy, nhưng việc khai-thác khí đốt đă tiến-hành với giá-trị thương-mại khiêm-tốn. Ước-tính trữ-lượng của một công-trường khí đốt ở Tiền-Hải là 1.3 triệu mét khối [127]. Cho dù ít hay nhiều, việc t́m kiếm dầu khí trong khu-vực duyên-hải và ngoài Vịnh Bắc-Việt cũng đă mang lại hy-vọng lớn cho cả nước về dầu khí [128].

Toàn tỉnh có 82 công-tŕnh kiến-trúc nổi tiếng như chùa Keo, đền Đông-bằng, đền Tiên Ca, cung Long Hưng. Thái B́nh có khoảng 30 lễ hội khác nhau như hội Keo, Tiên ca, Đồng-bằng, hội Du xuân, hội thi nghề... Các h́nh thức sinh hoạt văn-hoá ở Thái B́nh hết sức phong-phú với 16 thể loại hát, múa đặc trưng như múa rối nước Nguyên xá, chèo làng Khuốc, kéo chữ Phụng công, múa bát dập, hát ống Lộng Khê, hát trẽ khói Cốc mỏ... nhiều tṛ chơi độc đáo: Thi pháo đất, bắt cá, bắt trạch, bắt vịt, nấu cơm, dệt chiếu, rước ông Đùng - bà Đà, chọi trâu, chọi gà...

 

 

H́nh 73. - Cầu Tân-Đệ nối Nam-Định và Thái-B́nh lúc sắp hoàn-tất

           

 

H́nh 74. Vị-trí Cây Cầu Tân-Đệ- Cầu này nối liền Nam-Định với Thái-B́nh

 

3.19 - Nam Định

Diện-tích: 1,669,36 km2

Dân số (1999): 1,888,406 người

Nam Định là một tỉnh quan-trọng về dân số cũng như về vị-thế trong khu-vực châu-thổ sông Hồng. Tỉnh này gồm có: thành-phố Nam Định, các huyện: Xuân Thủy, Hải-Hậu, Nam Ninh, Nghĩa Hưng, Vụ Bản, Ư Yên. Thế mạnh về kinh-tế của Nam-Định là: Nông - Công - Ngư nghiệp

Địa-thế Nam Định thuận-lợi cho việc giao-thông đến các tỉnh lớn khác bằng đường bộ và đường thủỵ Quốc lộ 1 và liên tỉnh lộ 10 là những đường giao-thông quan-trọng. Năm nay, cây cầu Tân-Đệ nối Nam-Định và Thái-B́nh vượt sông Hồng vừa hoàn-tất.

Mật-độ dân-cư Nam Định cũng cao như Thái B́nh. Ruộng ở đây cũng như ở Thái B́nh, do phù-sa bồi đắp lên. Nông-dân cấy lúa hai vụ chiêm mùa[129]. Cây kỹ nghệ ở Nam Định không nhiều ngoài cây dâu nuôi tằm, cây bông sợi và cói trồng rải rác khắp tỉnh. Những loại cây ăn trái cũng được trồng nhiều ở vùng quê. Ở Xuân Trường và Giao Thủy có loại cam rất ngon, ở Ngọc Cục trồng chuối ngự và một loại bắp cải nổi tiếng. Các vùng gần sông biển thịnh hành về nghề đánh cá. Vùng biển Quất Lâm, Văn Lư có rất nhiều loại cá tôm ngon. Ngoài ra, dân chúng c̣n làm muối ở Quất Lâm, Lạc Quần, Văn Lư, Chợ Con, Xuân Hạ....Nam Định không có mỏ kim-loại mà chỉ có một số mỏ đá vôi ở vài ngọn núi đồi trong tỉnh.

Kinh-tế và thương mại của Nam Định chưa phát-triển mạnh, c̣n thiên về các nghề tiểu thủ công-nghệ. Sinh hoạt buôn bán tập trung vào thóc gạo, bông sợi, tơ lụa, ngư sản, muối, đồ khảm... Đặc-biệt nổi bật nhất có Nhà Máy Sợi Nam-Đinh có thời kỳ đã phát triển rực rỡ với khoảng 17,000 người. Giữa thập-niên 1990, do cách quản lý sai lầm, đã rơi vào tình trạng suy sụp. Hiện nay, nhà máy đang sử-dụng 7,300 công nhân. Với chương trình đầu tư đổi mới kỹ thuật, công nghệ từ nay đến năm 2005, Công ty Dệt Nam Định đang hy-vọng trở lại là một trong những công ty dệt may lớn nhất ở khu vực miền Bắc.

Nam Định có nhiều di-tích và thắng-cảnh như sau: Đền nhà Trần: đền Đức Trần Hưng Đạo, đền anh-hùng Triệu Quang Phục, đền thờ Trung Tấn Vương, đền thờ Lương Quận Công họ Bùi, đền Phủ Giầy và đền Đồng Phù, chùa Tháp chùa Phổ Minh, chùa Cổ Lễ và chùa Đại Bi thờ Đạo Hạnh Thiền Sư đời Lư.

Đền nhà Trần rất cổ, tại làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, cách tỉnh lỵ ba cây số về phía Bắc> Đền c̣n gọi là Thành Vàng hay đền Cổ Trạch, xây vào năm 1239 để thờ các vua nhà Trần, trước đền có hai chữ "Trung-Hiếu" rất lớn.

Nam-Định có 3 cảng:

- Cảng sông tại thị-xă Nam-Định tiếp-nhận 600,000 tấn hàng năm.

- Cảng biển Hải-Thịnh 750,000 tấn hàng năm.

- Cảng Kiến-Khê đang bành-trướng.

 

 

H́nh 75. Bản-đồ tỉnh Nam-Định

 

3.20 - Ninh B́nh

Diện-tích: 1,388 km2

Dân số (1999): 884,080 người.

Ninh B́nh bao gồm 2 thị xă lớn Ninh B́nh và Tam Điệp cùng 5 huyện: Hoàng Long, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp, Kim Sơn.

Diện-tích rừng của Ninh B́nh chiếm tới 11.275 hécta, rừng nguyên thủy Cúc Phương rất nổi tiếng. 233 loài động-vật bao gồm các loài chim, 24 loại côn trùng và nhiều loại thuốc quư.

 Về địa-thế, Ninh B́nh gồm hai khu khác hẳn nhau: khu phía Đông-Bắc là đồng-bằng phù-sa, khu phía Tây-Nam là đồi núi. Các dăy núi đá vôi chạy dài theo hướng Tây Bắc/Đông Nam từ tỉnh Ḥa B́nh ra đến biển vào đến tận tỉnh Thanh Hóá. Phía nam của Ninh-B́nh có nhiều đèo như đèo Tam Điệp (là nơi quốc lộ số 1 đi qua), đèo Đồng Giao, đèo Quán Các, đèo Chính Đạị...Khu đồng-bằng có nhiều ngọn núi đá vôi đơn độc cao từ 50 tới 100 thước, như núi Thúy, Cánh Diều, Hồi Hạc, v.v... Những núi bất thường này tạo nên một vùng cẩm tú mang danh là "Vịnh Hạ Long trên đất liền"[130].

 

 

H́nh 76. Bản-đồ tỉnh Ninh-B́nh

 

Vùng phía Nam của tỉnh Ninh B́nh, chỗ cửa sông Đáy, nhờ phù-sa bồi đắp mở rộng đất đai ra biển, hàng năm có tới 100 m.

Là một nhánh của sông Hồng, sông Đáy là sông lớn nhất của Ninh B́nh. Các sông khác chảy qua tỉnh là sông Nho Quan, Hoàng Long Giang và Chính Đại. Ninh B́nh có nhiều sông nhỏ ở gần miền biển, giữ vai tṛ hữu ích là tháo bớt nước trong mùa nước lớn tránh nạn lụt lội.

Tương-tự như sông Bạch Đắng, sông Đáy cũng từng giữ vai-tṛ chiến-lược trong lịch-sử:

- Vào năm Kỷ-Măo (979) hơn một ngàn chiến-thuyền Chiêm tiến vào cửa Đại-An sông Đáy. Không may cho họ, một trận băo nổi lên đánh ch́m cả hạm-đội. Phần lớn quân Chiêm làm mồi cho cá. Quân Chiêm gặp trận "Thần-Phong" không đánh đă tan. Thủy-quân Việt tại kinh-đô Hoa-Lư tuy sẵn sàng tác-chiến nhưng không phải ra tay.

- Sông Chính Đại (nhánh sông Đáy, thuộc huyện Yên Mô) có cửa Thần Phù. Đây là nơi quân Chiêm Thành đổ bộ thủy quân đánh bất ngờ và chiếm được thành Thăng Long năm 1377 (đời vua Trần Duệ Tông. Trước đây,cửa biển Thần Phù có gió to sóng lớn, nhưng nay đất bồi ra biển khá nhiều.

Trước đây, chung quanh tỉnh lỵ và trên bờ sông Đáy, dân chúng thường chỉ cấy lúa chiêm. Sau khi xây đê và lập hệ-thống dẫn nước vào ruộng ngày nay nông-dân canh tác tới 2, 3 vụ mùa hàng năm. Miền cao th́ trồng các loại cây kỹ nghệ như trà, trẩu, cà phê và thuốc lá. Thuốc lá Ninh B́nh khá nổi tiếng. Các hoa màu khác là lạc (đậu phọng) dâu, mía, ngộ, khoai...

Về phía Tây Nam có nhiều rừng có nhiều cây mây, song (một loại cây mây), và trẹ Tre hoa là loại tre rất tốt ở hai huyện Gia Viễn và Nho Quan. Rừng Ninh B́nh có nhiều dă cầm dă thú. Vùng gần biển, như Phát Diệm, dân chúng trồng cói và là một nguồn lợi đáng kể của Ninh B́nh. Vùng gần sông biển, dân ta cũng làm nghề đánh cá. Khoáng-sản trong tỉnh không nhiều, chỉ có mỏ than ở Đồng Giao, vùng núi có nhiều đá hoa. Kỹ nghệ và thương mại Ninh B́nh chưa phát-triển nhiều, chỉ có ngành dệt và sản-xuất chiếu ở vùng Phát Diệm là thịnh hành hơn cả.

Ninh B́nh có nhiều thắng-cảnh và di-tích lịch-sử: Hoa Lư: Kinh đô của nhà Đinh và Tiền Lê,

 Người ta đă t́m thấy nhiều cổ-vật quư từ thời kỳ đồ đá ở Ninh B́nh. Ngoài ra ở đây c̣n có suối nước khoáng với nhiệt-độ trung-b́nh 530C rất thuận-lợi cho khách du-lịch nghỉ ngơi và dưỡng bệnh.

            Ninh B́nh trước đây là kinh đô dưới triều vua Đinh và vua Lê vào thế kỷ 10. Cố đô này là một trong những điểm di-tích lịch-sử nổi tiếng nhất ở Việt Nam với các cụm di-tích: Đền thờ Vua Đinh, Vua Lê, cố đô Hoa Lư, chùa Nhất Tự, khu Ba Chùa, khu Vọng Đức và chùa Can Linh... Thêm vào đó c̣n có đền Thái Vi, chùa Bích Động, chùa Linh Cốc tại Tam Cốc - Bích Động cùng nhiều đ́nh, đền, chùa từ các thời Trần, Lê, Động Thiên Tôn: ở làng Đa Giá, thờ đức Trấn Vũ từ hơn ngh́n năm nay và nhà thờ đá Phát Diệm tại Kim Sơn.

 

 

H́nh 77. Quang-cảnh Ninh-B́nh, vùng “Hạ-Long Trên Cạn”

 

Về địa-giới, Ninh-B́nh là một tỉnh nhỏ tân-lập, nhiều khi bị sáp-nhập vào các tỉnh lớn hơn. Tuy vậy, chỗ đứng của tỉnh Ninh-B́nh trên phương-diện địa-dư và lịch-sử có tính-cách riêng-biệt và độc-lập của nó. Cảnh-quan cũng có thay-đổi nhiều trong giai-đoạn nửa thế-kỷ vừa qua. Những cánh đồng chiêm ngập nước mùa lũ-lụt đă biến mất.[131] Dân làng nhiều nơi không c̣n dùng thuyền làm phương-tiên giao-thông. Đê chắn nước dọc theo sông được xây khắp nơi, tuy giúp dân cầy cấy nhiều vụ lúa trong năm, nhưng cũng thường xuyên làm cho đồng ruộng bị úng-thủy lâu hơn.

Rừng nguyên sinh Cúc-Phương ở vị-trí giáp ranh-giữa ba tỉnh Ninh B́nh, Hoà B́nh; có diện-tích 25,000 ha, trong đó 3/4 là núi đá vôi cao từ 300 đến 600 m so với mặt biển.

Tại thị-xă Ninh-B́nh có một cảng sông với khả-năng tiếp-nhận tối-đa 2 triệu tấn hàng-hóa một năm (1.6 triệu tấn năm 1996). Tỉnh đang hoạch-định để tương-lai tiếp-nhận tàu biển cỡ một ngàn tấn.

 

3.21 - Thanh Hóa

Diện-tích:11,168 km2

Dân số (1999): 3,467,609 người

Thanh Hóa là một tỉnh lớn đông người, có bờ biển dài gần 100km với nhiều băi biển đẹp mà nổi tiếng nhất là Sầm Sơn. Đây là băi biển phẳng, nước xanh như ngọc tràn ngập ánh nắng với nhiều điểm du-lịch phụ cận như đền Độc Cước, ḥn Trống Mái, chùa Cô Tiên, khu đầm lầy nước mặn Quảng Cư, Quảng Tiên có nhiều chim thú, cây cỏ và hải-sản. Hàng năm có hàng triệu du khách tới Sầm Sơn để tắm biển và nghỉ ngơi.

Thanh Hóa có ngư trường của nhiều nguồn hải-sản khá phong-phú. Cả tỉnh hiện có khoảng 50 ngh́n lao-động và gần nửa triệu ngư-dân làm nghề biển.

Đất đai Thanh Hóa ít đồng-bằng nhưng rất nhiều rừng núi, chia tỉnh làm từng vùng. Núi rải rác khắp nơi, độ cao từ 200 đến 1.300 thước. Những dăy núi đáng kể là: Dăy núi Tam Điệp chạy dài phía Bắc, giáp ranh-giới với Sơn La, Ḥa B́nh và Ninh B́nh; dăy núi Pu Luông phía Tây, dăy núi Quỳnh Lưu phía Nam. Phía Đông có núi Lau, Ba Làng. Ngoài ra là những núi Ái, Hùng Lĩnh, Bù Me (700 thước), Bù Bưa (1.280 thước), Bù Bang, Bù Mun (719 thước), Bù Tam (357 thước), Bát Noăn Sơn, Sơn Trang, Hỏa Châu, Đá Chẹt, Bọm, Voi, Các, Vân Liên, Lom Dong, Thông Lim, Liên Xá, Ngọc Sơn, Tuân Thiềm, Hậu Thạch, Thiết Giáp, Thần Đầu, Bàn A, Xuân Đài, Tam Thai, Diệu, Bút, Kim Sơn, Mai Sơn, Độc Cước, An Hoạch, Khế, Nưạ...

Tỉnh có trên 200 suối và khoảng 20 sông rạch chảy từ hướng Tây-Bắc xuống Đông-Nam vào Vịnh Bắc-Việt. Sông chính là sông Mă dài 380 cây số, phát nguyên từ dăy núi Pu Va, chảy ngang tỉnh rồi ra cửa biển Hội Trào khá lớn (1,800 thước). Sông Lường (sông Chu) dài 135 cây số chảy từ Sầm Nứa bên Lào về Thanh Hóạ Ngoài ra là các sông Chang, sông Bười, sông Cây Gang, sông Đằng.... Những cửa biển quan-trọng là Hội Trào, Ba Làng, Y Bích, Bạng.

 Các cảng cá Lạch Hới (Sầm Sơn), Lạch Bạng (Tĩnh Gia), Lạch Trường (Hậu Lộc) đă và đang trở thành những trung-tâm dịch vụ nghề cá, không chỉ đem lại lợi ích kinh-tế trực-tiếp cho địa-phương, c̣n tạo thêm điều-kiện để các nơi khác đến giao-lưu hàng-hóa, trao đổi kinh-nghiệm hoạt-động kinh-doanh hải-sản.

 

 

H́nh 78. Bản-đồ Thanh-Hóa

           

Huyện Nga Sơn sát tỉnh Ninh B́nh có động Từ Thức, theo truyền thuyết là nơi Từ Thức gặp tiên. Động có rất nhiều điều kỳ thú do thiên-nhiên tạo ra như Đường lên trời, Kho gạo, Kho khỉ, Chuông...

Đền Độc Cước (c̣n gọi là đền Gầm) ngự trên đỉnh ḥn Cổ Giải gắn liền với truyền thuyết chàng khổng lồ xẻ đôi ḿnh, một nửa ra khơi tiêu diệt thủy quái bảo vệ dân chài, c̣n một nửa đứng canh trên đỉnh ḥn Cổ Giải. Đền vẫn c̣n tượng nửa thân người và bước chân khổng lồ trên đá của chàng trai dũng cảm đó.

Vườn quốc-gia Bến Én giáp phía Nam tỉnh Nghệ An có phong cảnh núi hồ đẹp cùng những cây cổ thụ hàng ngàn tuổi và nhiều động-vật quư hiếm.

Đối với những du khách say mê lịch-sử không thể bỏ qua di-tích thành nhà Hồ mà kiến-trúc của nó làm người ta liên-tưởng tới những thành đá ở Ư và Hy Lạp, các di-vật của người Việt cổ (Núi Đọ, Đông Sơn), khu di-tích Lam Kinh. Ngoài ra tới đây du khách sẽ được thưởng thức chiêm ngưỡng những di sản văn-hoá Việt Nam bao gồm các tṛ chơi dân gian, các làn điệu xứ Thanh, các lễ hội và nhiều hoạt-động văn-hoá khác. Chắc chắn Thanh Hoá sẽ là điểm dừng chân không thể bỏ qua đối với nhiều khách du-lịch trong và ngoài nước.

Bờ biển Thanh Hóa thấp và phẳng v́ tiếp giáp với các đồng-bằng. Tuy nhiên, cũng có vài nơi lởm chởm với những dăy đá ngầm. Ngoài khơi biển Thanh Hóa có một số đảo nhỏ như ḥn Nẹ ở phía Nam Nga Sơn, ḥn Nghi Sơn trên có núi Biện Sơn cao 162 thước. Phía Đông ḥn Nghi Sơn là quần đảo ḥn Mê với các ḥn Vang, ḥn Vát, ḥn Bong, ḥn Gác, ḥn Đó.

Một số nơi ở Đông Sơn, Thiệu Hóa, Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Hậu Lộc vẫn c̣n những vết tích của các thời kỳ đồ đá cũ sơ khai, đồ đá giữa, đồ đá mới, đồng thau sơ khai và những vết tích thuộc nền văn-hóa Đông Sơn cuối thời đại đồ đồng.

Núi rừng Thanh Hóa đă chia đất đai làm nhiều vùng kinh-tế. Vùng đồng-bằng trồng lúa và các loại hoa màu như khoai lang, đậu tương, ngô, thuốc lá, cau. Giữa miền núi và đồng-bằng có nhiều đồi thấp thích hợp cho việc trồng cây kỹ nghệ như trà, bông g̣n, mía, hoa màu, cây ăn trái. Cam ở làng Giàng và mía "Đường Trèo" nổi tiếng ngon.

Vùng rừng núi có nhiều loại cây lồ ô (luồng), tre, nứa, vầu, lim, quế, củ nâu. Lim xanh là loại gỗ rất tốt. Quế Thanh ở Trịnh Vạn rất quư, có thể chữa nhiều bệnh và có nhiều ở các rừng thuộc hai huyện Lang Chánh và Thường Xuân. Tại ven biển Thanh Hóa, dân chúng trồng dừa, dưa hấu, đay, dâu nuôi tằm, cói và làm nghề đánh cá. Cá Mè ở sông Mực thịt rất thơm. Xưa, cá Mè, cam Giàng, mía "Đường Trèo" thường được dùng để tiến vua. Rừng Thanh Hóa cũng có nhiều dă cầm dă thú như cọp, beo, gấu, khỉ, hươu, nai, gà gô, gà lôi, công....

Khoáng-sản địa-phương có một số mỏ như: Mỏ cơ-rôm (kền) cô-ban (cobalt) ở Triệu Sơn; mỏ sắt ở Đông Thiệu, Trung Sơn, Như Xuân; mỏ phốt-phát ở Hàm Rồng, Nông Cống, Vĩnh Thạch, Thọ Xuân; mỏ đồng vùng Lương Ngọc, Thường Xuân; mỏ ch́, kẽm ở Như Xuân, Tĩnh Gia; mỏ than vùng Quảng Xương, Cẩm Thủy; mỏ mi-ca ở Hoằng Hóa; mỏ đá vôi ở khắp nơi.

Thanh Hóa là vùng đất dựng nghiệp của nhiều triều đại. Tỉnh này có những di-tích lịch-sử và danh lam thắng-cảnh như: Mộ anh thư Triệu Trinh Nương, Đền anh-hùng Lư Thường Kiệt, Đền anh-hùng Trần Nhật Duật, Đền vua Lê Thái Tổ…

Tại xă Đan Nê, trong núi Tam Thai có Miếu Đồng Cổ. Trong Miếu có đặt một trống đồng, mặt trống lớn hơn hai thước, cao trên một thước; mặt có chín ṿng tṛn, chung quanh khắc hoa-văn. Tục truyền rằng đây là chiếc trống đồng đời vua Hùng Vương.[132]

Thanh Hóa đang cố nâng sản-lượng đánh bắt thủy-sản, từ 50,000 tấn trong năm 2000 lên đến 75,000 tấn vào năm 2010 (trong đó khai-thác xa bờ là 15,000 tấn vào năm 2000, và 35,000 tấn vào năm 2010). Về diện-tích nuôi trồng thủy-sản, từ 6,000 ha vào năm 2000 sẽ đạt đến 8,000 ha vào năm 2010. Thanh Hóa nâng giá trị xuất khẩu thủy-sản từ 12 triệu Mỹ-Kim USD (US Dollar) vào năm 2000 lên 40 triệu USD vào năm 2010.

 Ngoài người Kinh (84,7 %), Thanh-Hóa có tới 31 nhóm dân-tộc. Trong đó, đông nhất có người Mường (8,7 %), người Thai (5,9 %), người H'Mong, người Dao, và người Thổ. Người Kinh sống dọc duyên-hải, nợi đô-thị. Những dân-tộc khác sinh-hoạt tại vùng núi.

 

3.22 - Nghệ An

Diện-tích: 16,371 km2

Dân số (1999): 2,858,265 người.

Tỉnh Nghệ An có tới 16 dân-tộc sống chung với nhau. Đông nhất là người Kinh, sau đó đến người Thái, Tầy, H'Mông, Chút... Tỉnh có 17 huyện: Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghi Lộc, Hưng Yên, Nam Đàn, Đô Lương, Thanh Chương, Anh Sơn, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Quế Phong, Con Cuông, Trương Dương, Kỳ Sơn và thành-phố Vinh.

Nghệ An có đủ cả miền núi, trung du, đồng-bằng và ven biển. Tỉnh có nhiều sông lớn nhỏ. Sông lớn nhất là Sông Lam dài 532 km. Rừng chiếm 3/4 diện-tích của tỉnh. Có nhiều động thực-vật quí hiếm như: Hổ, Gấu, Trầm Hương, Kỳ Nam... Biển Nghệ An ấm, có khoảng 600 loài sinh-vật biển.

Nghệ An có nhiều danh lam thắng-cảnh: Băi biển Cửa Ḷ, Bến Thủy.. Các đặc sản nổi tiếng như: Cam xă Đoài, Bưởi Phúc Trạch, cà phê Phú Quỳ.

Nguồn hải-sản ở đây rất phong-phú, khoảng trên 200 loại cá, nhiều loại đặc sản như: tôm, mực, cua, rắn biển, cá mú... du khách đến Cửa Ḷ sẽ được thưởng thức các món ăn đặc sản ngay tại các nhà hàng và nếu có thể ngay tại băi biển.

 

H́nh 79. Bản-đồ Nghệ-An

 

Ngoài khơi Nghệ-An có đảo Ḥn Mát rộng chừng 3 km2 và những ḥn đảo nhỏ hơn không quan-trọng như Ḥn Niêu (Ḥn Ngư), Ḥn Tuần

Hải-cảng Cửa Ḷ đă được vét sâu xuống và cải-tiến cơ-sở và trang-cụ, hiện đă tiếp-nhận tàu lớn tới 10,000 tấn. Đây là cảng trung-tâm các tỉnh Miền Bắc Trung-phần, có khả-năng thu hút hàng quá cảnh của Thái Lan và Lào để chuyên-chở đi các nơi tiêu-thụ.

Nghệ-An là tỉnh có truyền-thống hàng-hải lâu đời. Thuyền bè và trang-cụ ngư-nghiệp c̣n mang nhiều sắc-thái đặc-biệt của cổ thời như cánh buồm h́nh tai, cây xiếm, bè tre…    

 

3.23 - Hà Tĩnh

Diện-tích: 6,054 km2

Dân số (1999): 1,269,013 người.

Hà-Tĩnh có hai thị xă là Hà Tĩnh và Hồng Lĩnh cùng 8 huyện là Hương Sơn, Đức Thọ, Nghi Xuân, Can Lộc, Hương Khê, Thạch Hà, Cốm Xuyên và Kỳ Anh. Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km. Sông Gianh và cửa biển Nhật-Lệ, địa-danh lịch-sử nằm ở đây.

 

 

H́nh 80. Bản-đồ Hà Tĩnh

 

Địa-h́nh Hà Tĩnh đa-dạng, có đủ các vùng đồi núi, trung du, đồng-bằng và biển. Cảnh quan có thác Vũ Môn, rừng quư Vũ Quang (Hương Khê), hồ Kẻ Gỗ, suối nước nóng Sơn Kim, đèo Ngang, chùa Hương Tích, Cửa Sót, Thiên Cầm - Ḥn Bớc, Ḥn Lá,... các băi tắm đẹp như Cửa Sót, Thiên Cầm, Đèo Con, Xuân Thành, Chân Tiên. các thắng-cảnh phần lớn đều phân bổ dọc đường quốc lộ 1A và quốc lệ 8.

Ngoài Mũi Rọn dưới chân đèo Ngang gần biên-giới Quảng B́nh có một ḥn đảo nhỏ bằng đá.

Hà Tĩnh nổi tiếng về "Văn-vật Hồng lam với các di chỉ khảo cổ rú Dầu, rú Rơm, băi Phân phối, đồ sắt Vân Chàm, Minh Long, đồ đồng Đức Lâm, đồ gốm Cảm Trang, đồ mộc Thái Yên, lụa Hạ, vải Hồ. Dăy Hoành Sơn c̣n lưu giữ lũng cổ đắp ghép từ thế kỷ thứ 4. Đạo Mẫu, đạo Nho, đạo Phật và tín ngưỡng thành Hoàng để lại hàng trăm đền, chùa, miếu mạo như tháp Cửa Diêu, chùa Hương Tích, đền Tam Lang...

Khu bảo-tồn thiên-nhiên Kẻ Gỗ dự kiến thành lập với diện-tích 24.800 ha, nằm trong vùng ranh-giới huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là vùng thường xanh cây lá rộng c̣n lại khá lớn thuộc dạng rừng trên địa-h́nh thấp đă được h́nh thành từ lâu dọc theo vùng đồng-bằng ven biển miền Trung Việt Nam mà hiện nay phần lớn đă biến thành vùng đất canh tác nông-nghiệp. Khu bảo-tồn thiên-nhiên Kẻ Gỗ sẽ là nơi bảo-vệ một khu-vực tiêu biểu của sinh cảnh rừng nói trên.

Rừng Hà Tĩnh có lâm sản các loại như gỗ lim, củ nâu, gụ, mây, tre, nứa; một số cây làm thuốc như quế, sâm, trầm hương, quán chúng thảọ... Khoáng-sản có một số mỏ sắt, thiếc, than đá, đất sét. Mỏ khoáng-sản được coi là lớn nhất vùng ở Thạch Khê (Hà Tĩnh) hiện đang chờ được khai-thác, do nằm sát ngay bờ biển và nằm sâu dưới đất.

Dân chúng hành nghề đánh tôm, cá dọc theo các sông rạch và bờ biển. Tuy vậy, tỉnh Hà Tĩnh chưa có một cảng cá thật sự với dịch vụ trên bờ cho nghề cá xa bờ và tỉnh cũng chưa có các cơ sở chế-biến thủy-sản hiện-đại.

 

3.24 - Quảng B́nh

Diện-tích: 8,984 km2

Dân số (1999): 793,863 người

Quảng B́nh nằm trải dài dọc theo phía bắc Miền Trung Việt Nam, là vùng hẹp nhất trên toàn lănh-thổ đất nước. Do đó bờ biển của tỉnh kéo dài tới 126 km. Quảng B́nh gồm 6 huyện: Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Minh Ḥa, Tuyên Hóa, Quảng Trạch và thị xă Đồng Hới.

Bởi có năm cửa sông, trong đó cửa Nhật Lệ, cửa Giang khá rộng, Quảng B́nh đă thu hút ngày càng đông lượng tàu thuyền các tỉnh miền Trung về neo đậu. Ở cửa Gianh và cửa Nhật Lệ, vào mùa cá, mỗi ngày có hàng ngh́n thuyền lớn ra vào mua bán hàng và hàng trăm xe vận-tải từ nhiều tỉnh, thành-phố trong nước đến chở hải-sản. Hoạt-động mua bán diễn ra suốt ngày đêm tạo nên thị trường nghề cá thật sôi động và sầm uất.

Tỉnh Quảng-B́nh cũng có chung vấn-đề khai-thác ngư-sản như tỉnh Hà-Tĩnh. Hầu hết các cơ sở chế-biến đều chỉ ở dạng thủ công, gia công để bán cho các đơn vị xuất khẩu lớn của địa-phương khác mà chưa có một nhà máy chế-biến hiện đại.

Quảng B́nh là vùng có khí hậu khắc nghiệt nhất trong cả nước. Hàng năm từ tháng 4 đến tháng 6 thường có gió Lào khô và nóng, từ tháng 10 đến tháng 12 thường có băo và lụt gây ra những thiên-tai nặng nề. Nạn đất lở biển lấn cũng thường hay xảy ra ở các vùng cửa sông vùng Quảng Trạch. Nhưng may mắn là trong thời gian từ tháng 2 tới tháng 4 hàng năm, thời-tiết dễ chịu. Đó là giai-đoạn thích hợp nhất cho các hoạt-động du-lịch.

Động Phong Nha là nơi mà các nhà nghiên-cứu khoa-học, thám hiểm hay khách du-lịch không thể bỏ qua. Ngoài ra, Quảng B́nh c̣n có biển Đá Nhảy, biển Nhật Lệ, hồ Bản Tro, Đèo Ngang, thành Đồng Hới.

 

 

H́nh 81. Bản-đồ tỉnh Quảng-B́nh

 

Giấu ḿnh trong núi đá vôi Kẻ Bàng, được tre trở bởi những cánh rừng nhiệt-đới, Động Phong Nha giờ đây đă trở nên nổi tiếng nhờ tạo hoá đă ban tặng cho một hệ thống hang động thật lộng lẫy với con sông ngầm được xác định là dài nhất thế-giới.

Tháng 4-1997, một cuộc hội thảo khoa-học về di-tích danh thắng Phong Nha - Xuân Sơn được tổ-chức tại Quảng B́nh. Kết quả nghiên-cứu khảo sát cho biết Phong Nha có 7 cái nhất:

1. Hang nước dài nhất

2. Cửa hang cao và rộng nhất

3. Băi cát và đá rộng đẹp nhất

4. Hồ ngầm đẹp nhất

5. Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất

6. Ḍng sông ngầm dài nhất Việt Nam (13.969 m)

7. Hang khô rộng và đẹp nhất.[133]

 Năm 2002, Việt-Nam đă đề-nghị đệ tŕnh UNESCO xin công nhận Phong Nha - Kẻ Bàng là di sản thiên nhiên thế giới.

Phía Cực Bắc của tỉnh Quảng B́nh có một mũi đất nhô ra biển, rải rác mấy ḥn đá trơ trọi, trên bản-đồ hàng-hải không thấy có đề tên.

Cảng Sông Gianh có thể nhận tàu 1,000 tấn. Cảng Nhật Lệ có thể nhận các tàu nhỏ 200 tấn. Trong năm 1998, 57,000 tonnes de marchandises ont transité par ces deux ports.

 

3.25 - Quảng Trị

Diện-tích: 4,588 km2

Dân số (1999): 573,331 người.

Là một tỉnh miền Trung, nằm trung điểm cả nước, ở ngă ba ra Bắc, vào Nam và sang Lào, Thái Lan. Tỉnh có tới 3/4 là đồi núi, cồn cá nghèo nàn khoáng-sản, bờ biển dài, sông ng̣i chằng chịt, dốc, khả-năng thoát nước chậm-chạp, đất nông-nghiệp ít.
Khí hậu khắc nghiệt, nghèo nàn khoáng-sản, bờ biển dài, sông ng̣i chằng chịt, dốc, khả-năng thoát nước rất chậm. Cả Tỉnh có 2 thị xă là Đông Hà, Quảng Trị và 6 huyện là Vĩnh Linh, Do Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải-Lăng, Hương Hóa.

Lợi thế so-sánh của Quảng Trị trong phát-triển du-lịch là bờ biển dài, có 2 cảng biển và cảng sông, có sân bay đang được xây-dựng lại, có đường sắt, đường quốc lộ 1A chạy qua. Đặc biệt đường 9 nối với đường Liên-Á qua cửa khẩu Lao Bảo - Huội Kaki sẽ tạo điều-kiện cho Quảng Trị là nơi nhận và phát luồng khách du-lịch đường bộ quan-trọng.

Tiềm-năng du-lịch nhân văn của Quảng Trị nổi trội hơn cả với nhiều công-tŕnh kiến-trúc lịch-sử, văn-hóa được bảo-tồn như Thành cổ Quảng Trị, văn-hóa Chăm, khu Thánh địa La Vang... Quảng Trị là một chiến trường ác liệt trong trận chiến tranh vừa qua. Địa-danh nổi tiếng thế-giới là cầu Hiền Lương, Cửa Tùng, vĩ tuyến 17, Cửa Việt, Cổ-thành Đinh-Công-Tráng ...

Từ băi biển Cửa Tùng thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị nh́n ra phía Đông ta sẽ thấy một ḥn đảo xanh lam nổi lên giữa biển như một chiến hạm đang trấn giữ ngoài khơi. Đó là đảo Cồn Cỏ, các tên khác là đảo Con Hổ, Ḥn Mê.

 

 

nh 82. Bản-đồ tỉnh Quảng-Trị

 

Quảng-Tri không có hải-cảng thiên-nhiên tốt. Hai cảng quan-trọng nhất của tỉnh nằm trên hai cửa sông có khả-năng hạn-chế như sau:

- Cảng Cửa Việt, có khả-năng nhận 200,000 tấn hàng hóa mỗi năm.

- Cảng Đông Hà với cầu tầu sẽ nhận tàu thuyền có trọng-tải tối-đa là 500 tấn trở lại.

 

3.26 - Cầu Long-Biên và Huyền-thoại 

            Qua một thế-kỷ nhiều biến-cố lịch-sử, Miền Bắc Việt-Nam đă thực-hiện nhiều công-tŕnh xây cất lớn không thể nào kể hết được. Ngoài việc kiến-tạo hệ-thống cảng đă mô-tả đâu đó trong cuốn sách, ở đây chúng tôi chỉ xin duyệt qua một vài xây cất đặc biệt ở đầu mốc và cuối mốc thời-gian kể trên mà thôi.

            Nhiều tài-liệu trong cũng như ngoài nước thường ghi kỹ-sư lừng danh Gustave Eiffel (1832-1923) là cha đẻ của cầu Long Biên. Theo tiểu-sử của Ông đăng trong gia-phả họ Eiffel của hội “l’association réunissant les descendants de Gustave Eiffel[134] th́ Gustave Eiffel không liên-hệ ǵ tới cây cầu “lịch-sử của nước ta. Tài liệu của Cục Lưu trữ Việt Nam cũng như tấm biển gắn ở đầu cầu bờ nam đều đúc nổi tên hãng thiết kế Daydé & Pillé (D&P). Hăng này đã trúng thầu với giá 5.390.794 franc.

Sự nhầm lẫn xảy ra có thể là do việc hãng Eiffel có gửi mẫu kiến-trúc tham gia, nhưng Eiffel là 3 trong số 5 hãng bị loại ngay vòng đầu tiên. 

Cách đây hơn 100 năm, ngày 28/2/1902, chuyến xe lửa xuất phát từ ga Hàng Cỏ đưa vua Thành Thái, toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, nhà vua Malaysia, hoàng gia Campuchia, đô trưởng Viên Chăn (Lào) tới làm lễ khánh khánh thành cầu Long Biên, cây cầu lớn nhất Đông Dương.

Cầu Long Biên dài 2.500 m, rộng 30,6 m, có một đường sắt và hai làn đường bộ. Độ cao móng nổi từ mặt nước đến mặt cầu là 44 m, ngập nước 30 m. Phần cầu vượt phía nội thành dài 800 m, gồm 20 trụ đá nối với nhau bằng 9 dầm sắt khổng lồ, mỗi dầm dài 61 m. Toàn bộ 30.000 m3 đá và 5.300 tấn thép cùng các vật liệu khác, kể từ viên sỏi, viên đá xanh... đều được vận chuyển từ Pháp sang[135].

H́nh 83. Cầu Long Biên năm 1925.

 

Đầu thế kỷ 20, Long Biên là cây cầu lớn và đẹp nhất khu vực và là một trong 4 cầu lớn nhất thế giới.

            Khi cả Hà Nội mới có duy nhất cầu Long Biên bắc qua sông Hồng, mọi phương tiện ôtô, tàu hỏa, xe máy, xe thô sơ, khách bộ hành đều đi chung trên cây cầu này. Mỗi lượt qua lại phải xếp hàng cả giờ đồng hồ.

 

H́nh 84. Cầu Long Biên hiện tại. (ảnh: Xuân Thu)

 

Từ khi có thêm hai cầu Thăng Long, Chương Dương, cầu Long Biên chỉ còn dành riêng cho người đi bộ và xe thô sơ. Cũng vì thế, cầu được đặt thêm một tên mới: cầu của người nghèo. ở tuổi 100, hiện mỗi ngày cầu Long Biên gồng mình gánh khoảng 35.000 lượt người với hàng chục nghìn lượt xe thô sơ và tàu hỏa qua lại.

H́nh 85. Vị-trí 3 cây cầu Long-Biên, Chương-Dương và Thăng-Long (quanh Hà-Nội) nối tả-ngan với hữu ngạn Sông Hồng

 

Việc nâng cấp cầu Long Biên sẽ được tiến hành trong năm nay với tổng kinh phí 70 triệu USD. Số tiền này được vay từ vốn ưu đãi và viện trợ của Chính phủ Pháp hoặc vốn ODA Nhật Bản. Dự kiến cầu sẽ có 4 làn xe cho ôtô, phần dành cho đường sắt sẽ cải tạo thành đường cho người đi bộ.[136]

 

H́nh 86. Cầu Long Biên hồi đầu thế-kỷ 20

 

3.27 - Người thợ Việt Nam Xây “Cầu nối 3 Thế-kỷ”

            Vào tháng 4-1897, sau khi nhậm chức hai tháng, toàn quyền Đông Dương Paul Doumer[137] đă phê chuẩn dự án xây cầu bắc qua sông Hồng. Cây cầu mang tên Pháp Paul Doumer, tên Việt Long-Biên, cần-thiết cho việc vận chuyển bằng đường bộ và tàu hoả từ Hà Nội xuống cảng Hải Pḥ̣ng, lên Lạng Sơn, Lào Cai sang tận Côn Minh. Hàng từ Vân-Nam theo đường sắt tới Hà-Nội cũng theo cầu này ra tàu biển…

Có nhiều câu chuyện về những người thợ cầu Việt Nam thời đó. Trong  cuốn hồi kư của Ông, Paul Doumer đă có những ḍ̣ng viết trân trọng về họ: "Những người thợ An Nam xây trụ cầu ngồi trong các két sắt đi xuống nước như những con tàu dấn sâu vào đáy sông rồi sau đó th́ vào vùng khí nén, nơi đó sâu tới 30 -33m, sự làm việc trở nên khó nhọc đến mức kinh khủng. Những người thợ Việt (An Nam) mảnh khảnh xuống đến độ sâu như thế nhưng họ không hề sợ hăi, thản-nhiên làm việc. Rồi những thanh thép được đưa sang lại cũng chính là những người thợ Việt lắp ráp. Lúc đầu, người ta tuyển phần lớn là người Tàu, tưởng rằng họ khoẻ hơn người Việt nhưng dần dần chính những người Tàu ấy lại được thay thế bằng người Việt-Nam. Nếu họ có kém sức hơn một chút nhưng ngược lại họ lại năng động hơn, tinh nhanh khéo léo…". Cây cầu dự định sẽ phải xây dựng trong 5 năm nhưng do nhà thầu và thợ giỏi nên chỉ hơn 3 năm (12/9/1898 - 28/2/1902) đă được hoàn thành.[138]

Đến nay cây cầu đó sau hơn một trăm năm vẫn tồn tại, vắt ngang ba thế kỷ.

 

3.26 - Hệ-thống Thủy-điện Việt-Nam, Nay và Mai

            Không những là một nước nghèo so với thế-giới tiến-bộ mà c̣n sau chân ngay cả những quốc-gia vùng Đông-Nam-Á, Việt-nam chỉ mới bắt đầu đạt được vài thành-quả điện-lực-hóa quốc-gia vào cuối thế-kỷ thứ 20..

 

 

H́nh 87. Hệ-thống Thủy-điện Việt-Nam, nay và mai.

 

Chương-tŕnh năng lượng mới của Việt-Nam bao gồm năng lượng mặt trời, năng lượng gió, thủy điện nhỏ, năng lượng thủy triều.. Trong thời gian đầu Việt-Nam đă tập trung vào năng lượng mặt trời để sấy các sản phẩm nông nghiệp cao cấp, đun nước nóng, tiếp thu các thành quả nghiên cứu về tế bào quang điện, nghiên cứu chế tạo các thiết bị sử dụng điện mặt trời (inverter, low energy demand light)... Tuy vậy, vào đầu thế-kỷ 21, ngành thủy-điện vẫn là nguồn cung-cấp năng-lượng chính-yếu cho cả nước. 

 Theo tính toán của Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN), với tốc độ đầu tư và tăng trưởng phụ tải điện như hiện nay, trong ṿng 3 năm nữa sẽ xảy ra hiện tượng thiếu điện trong cả nước. Để bảo đảm không xảy ra thiếu điện, Việt-Nam đă dự-trù xây-dựng thêm các nhà máy điện: Rào Quán, Plei Krông, Sê San 4, Knak, An Khê, Đồng Nai 3 và 4, Thượng Kon Tum, nhiệt điện Hải Pḥng, Quảng Ninh và nâng cấp nhà máy nhiệt điện Phả Lại 1.

Trong tương-lai gần, viêc khai-thác những nguồn năng-lượng thiên-nhiên ngoài Vịnh Bắc-Việt như từ gió, nước biển, thủy-triều xem ra chưa được quan-tâm đến. Theo Giáo-Sư Lê-Bá-Thảo, Nhà Nước Việt-Nam có chính-sách liên-tục phát-triển thủy-điện trên toàn lănh-thổ. Các nhà khoa-học thuộc Viện Phát-triển Quốc-Tế Harvard, trong khi cân-nhắc giữa khí và thủy-điện Việt-Nam, có ư-kiến cảnh-giác rằng “chính-sách dựa quá nhiều vào nguồn thủy-điện sẽ không khuyến-khích được hoạt-động thăm-ḍ và sản-xuất khí. Chính-sách Nhà Nước là phải phát-triển đồng-bộ và có cân nhắc tất cả các nguồn tài-nguyên[139].


 

Chương 4

Vịnh Bắc-Việt, Nơi Khai-nguyên Hàng-Hải

 

4.1 - Văn-minh và Hàng-hải

Người khen nâng lên, kẻ chê đạp xuống; sự đánh giá văn-hóa Việt-Nam cổ thời rất là khác-biệt. Đă có nhiều người cho rằng căn-bản của dân ta quá thấp kém. Thí-dụ như trong cuốn sách “Tổ Quốc Ăn Năn”, tác-giả Nguyễn Gia Kiểng đă nhận-xét như sau:"…chúng ta có lẽ là nền văn minh phù sa muộn nhất… dấu ấn của nền văn minh phù sa: cần cù, nhẫn nại, nhưng thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm. Ông cho rằng tổ tiên của chúng ta qua nhiều ngàn năm, tuy sống bên cạnh biển, mà chỉ nh́n biển với cặp mắt sợ hăi, không sáng chế ra kỹ thuật hàng hải nào cả.[140]

            Chúng tôi đồng-ư với Ông Kiểng là thế-hệ chúng ta có thể “thủ cựu, thiếu sáng kiến, thiếu óc mạo hiểm, và ... sợ biển”, thế nhưng tiền-nhân chúng ta th́ không. Một số chứng-cớ sau đây góp phần “biện-hộ” cho người xưa  đă “không sợ biển” và nhiều ít vinh-danh những đóng góp to lớn của Ông Cha chúng ta trong kỹ-thuật hàng-hải. Đặc-biệt đáng nhấn mạnh ở đây, hầu hết các công-tŕnh phát-minh hàng-hải đều đă được thực-hiện bên bờ Vịnh Bắc-Việt và Biển Đông.         

 

4.2 - Tiền-nhân chúng ta sống ngoài biển thời Băng Đá

Trong lịch-sử trái đất, mực nước biển đă dâng lên hạ xuống nhiều lần, sự sai-biệt có tới 150m. Cách nay chừng 18,000 năm, diện-tích Biển Đông chỉ bằng phân nửa hiện nay. Dân-cư vùng duyên-hải vốn sống bằng cách thu-lượm tôm cá, ṣ ốc. William Meacham[141] khi nghiên-cứu bản-đồ địa-h́nh đáy biển, cho biết lúc xưa bờ Biển Đông tương-đối bằng phẳng nhưng bị sông, hồ nước chia cắt khắp nơi[142]. Khoảng 14,000 năm trước đây, bè tre đă xuất-hiện như phương-tiện di-chuyển chính-yếu.

 

H́nh 88. H́nh-thể Biển Đông với các đồng-bằng thời Băng-đá  Theo ư-kiến của một số nhà khảo-cổ, dân-cư của vùng Nanhai, Sunda sinh sống trong môi-trường hàng-hải[143])

 

Nhà khảo-cổ Malcolm F. Farmer, trong khi đi t́m nguồn gốc thuyền bè, đă thấy rằng Vịnh Bắc-Việt là nơi có chứng-cớ nhiều truyền-thống liên-hệ nhất giữa những loại bè thời cổ với thuyền độc-mộc và với các ghe thuyền kiến-trúc có sườn, có khung sau này. Farmer cho rằng chính trên các loại bè này, người ta đă phát-minh cánh buồm đầu tiên. Chắc chắn "Bè có trang-bị Buồm" là phương-tiện viễn-duyên đầu tiên của nhân-loại. [144]

Rồi qua thời Hậu Băng-Đá[145], nước biển cứ cao dần. Khi mực nước biển gần đạt đến mức-độ như hiện nay, chừng -25m, bờ biển đă lùi sâu vào lục-địa, gặp đúng chỗ địa-thế lởm chởm, lồi lơm. Nhiều nhóm người sống trên các hải-đảo. Sự liên-lạc, di-chuyển bằng thuyền bè trở nên càng ngày càng cần-thiết hơn.

H́nh 89. Bờ biển xứ ta lúc xưa phẳng-phiu chia cắt bởi nhiều sông, hồ, nay lởm chởm lồi lơm.

 

Các trở ngại, khó khăn trên biển đă thúc-đẩy con người phải phát-minh ra những cánh buồm, những bánh lái, những loại thuyền nhiều thân và những cơ-phận điều-khiển khác để việc hải-hành được an-toàn hơn, tránh bị thổi ra ngoài khơi[146]. Meacham tin rằng 6,000 - 4,000 năm trước Tây-lịch, những nền văn-minh vùng châu-thổ sông Hồng bắt đầu nảy nở. Đồ gốm đă được nặn trên bàn xoay ở Đậu-Dương. Khoa khảo-cổ cũng t́m thấy dây câu, lưới bắt cá và thuyền độc-mộc. Phần lớn  dân-cư sống bằng ngư-nghiệp. (4,000 năm TTL..). Nhiều người đặc-biệt thích-nghi với môi-trường nước, một số nhỏ hơn sống suốt đời trên bè, trên ghe. Một vài nhóm trở thành những bộ-lạc hải-du.[147]

4.3 - Môi-trường Độc-nhất thời Băng Đá tạo Sinh-hoạt hàng-hải

            Vùng Đông-Nam-Á nói chung và vùng Vịnh Bắc-Việt nói riêng là nơi duy-nhất trên thế-giới đă trải qua nhiều cuộc biến-chuyển mạnh mẽ về địa-lư và nhân-văn đặc-biệt ảnh-hưởng bởi môi-trường nước.

Một số nhà nghiên-cứu cho rằng sự thay đổi về địa-lư Biển Đông không những chỉ làm thay đổi môi-trường sinh-sống của sinh, thực-vật trên đất, dưới biển trong vùng mà c̣n tạo-dựng lên cả một cuộc biến-đổi to lớn làm phát-sinh những nền văn-minh quan-trọng về nông-ngư-nghiệp cùng hàng-hải có thể gọi là tiền-tiến của nhân-loại.

Tài-liệu mới nhất là cuốn “Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia” của Bác-Sĩ Stephen Oppenheimer, xuất bản tại Anh Quốc năm 1999. Dựa trên những kiến-thức cập nhật mới đây của các ngành khoa-học như di truyền học, nhân chủng học, thần thoại, văn học dân gian, ngôn ngữ học, hải dương học, khảo cổ học... để cho ra đời một cuốn sách làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam Á học và khảo cổ học phải ngẩn ngơ... Có người c̣n cho rằng đây là một quyển sách quan trọng vào bậc nhất trong ngành Đông Nam Á học![148]

Chính tác-giả Oppenheimer đă viết: "Lư thuyết mà tôi tŕnh bày trong cuốn sách này. lần đầu tiên, đặt Đông Nam Á vào trung tâm của các nguồn gốc văn hóa và văn minh. Tôi cho rằng nhiều người đă phải di tản khỏi vùng duyên hải của họ ở phương Đông v́ lụt lội. Những người tỵ nạn này từ đó vun đấp những nền văn minh vĩ đại ở phương Tây."

Đă có nhiều nhà khoa-học cố gắng giải-thích sự h́nh-thành nền văn-hóa hàng-hải của dân Việt nói riêng và của dân Đông-Nam-Á nói chung. Những sắc-thái đặc-thù này khác-biệt hẳn với sắc-thái văn-hóa hoàn-toàn lục-địa của Trung-Hoa.

 

4.4 - Sự phân-tán văn-minh theo đường hàng-hải

Lư-thuyết Norman cho rằng một số lớn dân Đông-Nam-Á khởi-sự trước hết bằng cuộc sống ở duyên-hải[149], sau này hội-nhập với dân-cư vùng cao-nguyên nhưng rồi trở về lại vùng đồng-bằng gần biển, tiếp-tục phát-triển nghề hàng-hải.

Wilheim G. Solheim cho rằng 6,000 năm trước, dân Đông-Nam-Á đă mạo-hiểm ra khơi v́ nhu-cầu di-chuyển. Gió băo và hải-lưu của Biển Đông và Thái-b́nh-Dương đă cuốn trôi một số người tới Nhật-Bản, trong khi các nhóm khác bị quét sang Phi-luật-Tân, Nam-Dương và Melanesia. Tiếp theo, những toán dân-chúng di-chuyển tới các đảo ngoài khơi Thái-b́nh-Dương và sang Madagascar.

 

H́nh 90. Thuyết Buckminster Fuller về Hải-lộ phân-tán dân-cư. Khi nước biển dâng cao, từ Biển Đông di-dân đi ra khắp nơi theo các giai-đoạn phát-minh thuyền bè, buồm, xiếm...

 

Bàn rộng hơn thế nữa, cũng theo Solheim, Biển Đông của Đông-Nam-Á thời cổ c̣n là nơi phát-sinh những đường hàng-hải giao-tiếp với các nơi ở dọc biển Á-châu, Âu-châu, Phi-châu, Đại-dương-châu và cả Mỹ-châu. Solheim lư-luận rằng chỉ có sự kiện Đông-Nam-Á giữ vai-tṛ trung-tâm phân-tán như trục một cái bánh xe tỏa nan-hoa ra khắp nơi mới giải-thích được hiện-tượng lịch-sử là tại sao các chủng-tộc khác-biệt của loài người sống xa cách nhau trên khắp thế-giới lại có nhiều sự tương-đồng về sinh-hoạt văn-hóa như vậy![150]

Cùng nhận-định như Solheim nhưng đi trước ông tới 40 năm, nhà ngữ-học Pháp Paul Rivet đă làm nhiều cuộc nghiên-cứu và kết-luận rằng: "Từ vùng Đông-Nam Á-châu, một thứ ngôn-ngữ đă được truyền-bá đi bằng đường hàng-hải đến Nhật-Bản, Tasmania, Địa-trung-hải, Phi-châu và Mỹ-châu".[151]

 

H́nh 91. Quan-niệm truyền-bá ngôn-ngữ ĐNÁ đi khắp thế-giới theo đường hàng-hải, khởi-sự từ Biển Đông (Paul Rivet, 1929.)

 

Carl Sauer duyệt-xét những biến-chuyển về địa-lư Biển Đông trong thời-khoảng mười mấy ngàn năm trước đây, đưa ra kết-luận về tinh-thần tiến-bộ của cư-dân người Việt (Yüeh) thời cổ như sau: "Mực nước Biển Đông dâng cao làm tăng thêm nhịp bồi-đắp phù-sa lên những khu thung-lũng duyên-hà trong khi các vùng đất thấp tiếp-tục bị lụt. Dân-cư khi xưa sống rải rác th́ lúc này thu lại thành các vùng cư-trú dọc theo nguồn nước... Một thế-giới mới đă thành-h́nh, sự thay đổi môi-trường vật-lư địa-dư đă trở thành cơ-hội thuận-tiện tối đa cho những dân thích phiêu-lưu và mong tiến-bộ... Người dân bỏ sự nhàn rỗi và nhờ trí-óc ṭ-ṃ để t́m thử-nghiệm, một cộng-đồng như vậy chỉ cần một thời-gian ngắn để chuyển-tiếp từ ngư-nghiệp sang thẳng nông-nghiệp.[152]

Cùng với Meacham, Sauer ư-thức tầm quan-trọng của ngư-nghiệp và hàng-hải trong tiến-tŕnh văn-minh Đông-Á thời cổ. Khác biệt hẳn với các nơi khác trên thế-giới, Biển Đông và vùng đất chung-quanh có tới hai vụ gió mùa trong một năm, nên hoàn-cảnh rất thuận-lợi cho sự phát-triển các ngành nông-nghiệp, ngư-nghiệp và hàng-hải.[153]

V́ Biển Đông có hai mùa gió nên việc hải-hành viễn-duyên khi đi cũng như khi về rất tiện-lợi. Hàng-hải phát-triển kéo theo sự bành-trướng thương-mại. Sự trao đổi hàng-hóa nâng cao kỹ-thuật chế-tạo phẩm-vật và phương-tiện giao-thương.

Charles F. Keyes viết trong sách "The Golden Peninsula"[154] rằng Việt-Nam là nơi phát-khởi nền văn-minh Hoà-B́nh trải rộng khắp Đông-Nam-Á. Keyes đă xác-định hai điểm sau:

- Quá-tŕnh văn-hóa thời tiền-sử của toàn vùng Đông-Nam-Á thường được chia ra làm những giai-đoạn mà chỉ-danh từng giai-đoạn lấy từ địa-danh các vị-trí khảo-cổ tiêu-biểu nhất như Ḥa-B́nh, Bắc-Sơn, Đông-Sơn; tất cả đều nằm trong Bắc-phần Việt-Nam (trang 182.)

- Thời-đại Đồ Đồng xuất hiện vào khoảng 3,000 đến 2,500 năm TTL. ở Đông-Nam-Á, nghĩa là khởi-sự sớm hơn Trung-Hoa và Ấn-Độ. Biểu-tượng chính của nền văn-minh này là những Trống Đồng t́m thấy ở nhiều nơi xa xăm như Fores, Sulawesi thuộc Nam-Dương quần-đảo. Những trống đồng như vậy đều được đúc tại vùng đất Đông-Sơn nhỏ hẹp của Việt-Nam, từ đó trống được phân-phối đi khắp Đông-Nam-Á theo đường hải-thương (trang 16.)

Nằm cạnh bờ Vịnh Bắc-Việt, nền văn-minh Đông-Sơn không những chi-phối các sinh-hoạt con người toàn vùng Đông-Nam-Á mà c̣n ảnh-hưởng xa hơn, ra các đảo Thái-B́nh-Dương và đến cả Mỹ-Châu. Điều cần-thiết phải nhấn mạnh là Đông-Sơn, đặc-biệt hơn một số các nền văn-minh khác ở chỗ nó nhuốm mầu sắc hàng-hải, hướng về biển cả hơn là đất liền. Cũng nhờ đó, Đông-Sơn trở thành một trong các nền văn-minh có địa-bàn rộng răi bao la nhất trong lịch-sử nhân-loại. Cho dù các văn-minh Cận-Đông, Ai-cập, Ấn-Độ, Trung-Hoa, Hy-Lạp, La-Mă... có chói sáng, có vĩ-đại mấy đi nữa; cũng chưa bao giờ được kể là đă đi xuyên đại-dương, vượt ngang qua nhiều đại-lục.

 

H́nh 92. Trống Đồng ghi-dấu khắp nơi ở Đông-Nam-Á (Trống Đông-Sơn, Viện Khảo Cổ Học, Hà Nội 1987, trang 131.)

 

Trong học-thuyết về nền văn-hóa Đông Sơn, Victor Golubev[155] nói đến ảnh hưởng của nó ra các khu-vực lân cận. Ông nêu rơ các dấu tích ảnh hưởng của nền văn-minh Đông Sơn cổ ở những quốc-gia miền Nam và vùng ven biển Trung Quốc, quần-đảo Nhật Bản, ở các dân-tộc Nam Đảo châu Đại Dương. Là người ủng hộ tư tưởng về những cuộc tiếp xúc văn-hóa rộng lớn thời cổ, ông kiên tŕ nhấn mạnh nguồn gốc bản-địa của nền văn-hóa Đông Sơn. Trong cuộc tranh luận với E. Gaspardone, ông đă bác bỏ quan điểm chủ đạo trong ngành Hán-học Pháp rằng, dụng-cụ bằng kim-loại, cũng như nhiều đặc trưng khác của nền văn-minh và văn-hóa Trung Hoa, mới du nhập vào Việt-Nam sau khi nhà Hán xâm chiếm được đất Việt.[156]

 

4.5 - Ghe Thuyền Việt-Nam Kỹ-thuật cao trong Cổ-thời

Nhiều nhà nghiên-cứu hàng-hải Âu Mỹ đồng-ư với quan-điểm của Clinton R. Edwards rằng bờ biển Việt-Nam, đặc-biệt vùng Vịnh Bắc-Việt và Hoa-Nam chính là nơi quy-tụ nhiều kiểu ghe thuyền phong-phú hơn bất cứ nơi nào khác trên thế-giới. Kiến-trúc Tàu bè Việt-Nam rất độc đáo và đă đạt đến tŕnh-độ kỹ-thuật cao ngay từ cổ-thời.

Edwards cho rằng những Người Biển (Orang Laut) ở Đông-Nam-Á thuộc những bộ-lạc Hải-du (Sea nomads) phát-triển truyền-thống hàng-hải trước khi chính họ mở mang nông-nghiệp.[157]

Tuy vậy nhân-loại ít lưu-tâm tới quá-tŕnh hàng-hải đó nếu như trong khoảng bốn thập-niên trở lại đây không có phong-trào nghiên-cứu những giao-tiếp Á-Mỹ trước thời Kha-Luân-Bố[158]. Một trong những học-giả uy-tín nhất là Robert Heine Geldern đă nhận ra nhiều mối liên-hệ văn-hoá giữa Mỹ-Châu và bờ biển Á-Đông mà trong đó nền văn-hoá Đông-Sơn của Việt-Nam rất đậm nét.[159] V́ giao-tiếp chỉ có thể thực-hiện được bằng đường biển nên người ta cần t́m hiểu kỹ-thuật kiến-trúc ghe thuyền. Đó là lư-do thúc đẩy các nhà xuất-bản cho in các cuốn sách nghiên-cứu mới và tái-bản những sách cũ mà tài-liệu liên-hệ đến nền hàng-hải cổ-thời của Việt-Nam.[160] 

 

4.6 - Người Việt Tiên-phong về Kiến-trúc Ghe thuyền

            Chúng tôi đă điểm qua các thuyết về quá-tŕnh hàng-hải của dân ta. Nếu quả thực như vây, chúng ta phải t́m kiếm xem dân ta đă phát-minh và hoàn-thiện ghe tàu như thế nào th́ mới hoàn-toàn thuyết-phục được mọi người.  

Nói về những thành-quả phát-minh của người Việt trong công-tác kiến-trúc thuyền bè, người ta sẽ phải viết rất nhiều. Đề-tài này chưa được nhiều người Việt-Nam nghiên-cứu và viết thành sách. Riêng chúng tôi trong khi đi t́m ra những điểm mốc căn-bản cho kỹ-thuật hàng-hải thời cổ, đă thấy rằng nhân-loại nói chung đă đi từ khúc cây làm bè, chuyển dần qua thuyền, cải tiến buồm để di-chuyển mọi hướng (quan-trọng nhất là đi chếch ngược với hướng gió) và có lẽ sau cùng nghĩ ra cách vận-chuyển (lái) thuyền tự-động (không cần người lái). Những mốc bức-phá quan-trọng nhất về hàng-hải đúng là đă xảy ra tại Biển Đông (mà cái nôi là Vịnh Bắc-Việt).

Sau đây, chúng tôi xin lược-kê các phát-minh được thực-hiện bởi tiền-nhân người Việt chúng ta, như sau:

- Chế-tạo bè tre gồm những cây tre có đặc-tính nổi tự nó. Bè tre không giống ghe thuyền phải tạo ra khoảng không-gian kín nước mới nổi được. Sự kết hợp các cây tre tạo tác-dụng như những thuyền nhiều thân mang lại sự bền-vững (Moment cân-bằng là bội-số gia-tăng theo số các thân thuyền).

- Phát-minh buồm để có thể sử-dụng được cả hai mặt (for and aft lugsail). Tiến-bộ của kỹ-thuật này giúp thuyền đi chếch ngược hướng gió.

- Phát-minh các ô kín nước (áp-dụng từ đặc tính tự nổi của (bè) tre) để gia-tăng sự an-toàn. Kỹ-thuật kiến-trúc mềm dẻo, làm thân thuyền thích-nghi với sóng gió.

- Phát-minh bánh lái đặt ở đuôi trục giữa thuyền giúp thuyền vận-chuyển dễ-dàng và chính-xác hơn.

- Phát-minh cây xiếm, phối-hợp xiếm với buồm để thuyền tư-động lái theo một hướng cố-định với hướng gió. 

 

4.7 - Khả-năng Đi Biển của Bè Tre Việt-Nam

            Theo Malcolm F. Farmer, không những bè mảng là thứ "phương-tiện nổi" đầu tiên được trang-bị buồm; bè mảng c̣n là tiền thân của các loại ghe thuyền có nhiều khoang kín nước ngày nay.[161] 

- Bè tre tự nó, theo kiến-trúc là một loại phương-tiện nổi gồm nhiều ngăn kín nước là những lóng tre. Người Việt là giống dân độc-nhất sử-dụng đủ các loại tre, bương, luồng… trong mọi kiến-trúc ghe thuyền.

Stephen C. Jett, một học-giả uy-tín chuyên kháo-cứu về khả-năng vượt biển của nhân-loại về cổ-thời, đă phát-biểu trong bài "Diffusion versus Independent Development" như sau:"...sức tác-dụng của sóng gió tăng theo với quán-tính của những con thuyền nặng nề và do đó cũng làm cho nó dễ bị bể vỡ hơn. Một con thuyền hay một chiếc bè nhỏ bé nhưng kiến-trúc tốt, dễ dàng hoàn-tất việc vượt đại-dương. Đặc-biệt tốt hơn nữa nếu kiến-trúc lại mềm dẻo, tỷ như các loại bè ghép bằng cây tre và loại thuyền kết bởi ván gỗ (flexible construction as lashed-log rafts and sewn-plank boats)[162]...". Đặc-tính kiến-trúc và cả hai loại bè và thuyền ưu-việt kể trên đồng-thời đều hiện-hữu tại Việt-Nam.

 

4.8 - Phát-minh Bánh lái

            Một mẫu thuyền bằng đồ gốm, có đầy đủ bánh lái và trục bánh lái nằm giữa đuôi thuyền được t́m thấy ở Quảng-Châu, gần kinh-đô Phiên-Ngung của nước Nam-Việt trong thời nhà Triệu (thế-kỷ thứ nhất TTL.) Phát-minh quan-trọng về lái tàu đă khởi-sự trước đó 6 thế-kỷ trước thời-gian này. H́nh-ảnh bánh lái đă xuất-hiện trên trống đồng Đông-Sơn. V́ vùng Quảng-Châu là đất những người người Việt cổ sinh sống trước kia, nên người ta t́m ra mẫu thuyền có bánh lái ở đó.

            Cùng suy-luận như vậy, Per Sorensen cho rằng quan-sát những h́nh thuyền trên trống đồng, người ta nhận thấy có sự cải tiến kỹ-thuật bánh lái theo thời-gian. Trên trống loại OB 89 (Tam Ongbah, Thái-Lan), bánh lái như được gắn vào một cái trục ở đuôi thuyền. Trên trống Hữu-Chung (Việt-Nam), bánh lái được thiết-trí tương-tự như một số ghe thuyền ngày nay. Những thay đổi này đă mở đường cho những khả-năng hải-hành ngoài biển rộng.[163]

            Ảnh-hưởng to lớn đến ngành hàng-hải như vậy mà chỉ được người Âu-Châu biết đến và áp-dụng vào thế-kỷ thứ 12. Một số sử-gia cận-đại phát-biểu rằng chiếc bánh lái sau khi gắn vào đuôi Tàu Tây-phương đă đẩy mạnh thời-đại thám-hiểm cùng khám-phá đất lạ và dĩ-nhiên sau đó, bành-trướng chế-độ thuộc-địa. Văn-minh Tây-phương, thường được gọi là "Rise of the White" bắt đầu bộc-phát mạnh cũng từ đấy.

H́nh 93. Bánh lái trên thuyền Quảng-Châu với phần ghi chú "không phải của người Tàu " (China's Civilization, Arthur Cotterell & David Morgan, New york, 1975.)

 

H́nh 94. Trang-cụ kiểu bánh lái được gắn nơi lái các thuyền Đông-Sơn (700 năm trước Tây-Lịch).

           

Theo những khám-phá kể trên, từ thời văn-minh Đông-Sơn, dân Việt chúng ta đă phát-minh ra cách-thức điều-chinh độ sâu của các bánh lái và cây xiếm. Đến nay, những trang-cụ độc-đáo này c̣n sử-dụng trên các loại bè vùng từ cửa sông Thái-B́nh đến bờ biển miền Trung, trên các ghe bàu, ghe nang,... chạy khắp nơi trong nước.

 

4.9 - Chế-tác buồm đi trước thời-đại

            Một số khoa-học-gia, trong đó có Edwin Doran Jr., Christian J. Buys & Sheli O. Smith đă nghiên-cứu và phát-hiện rằng cánh buồm đầu tiên xuất-hiện giữa vùng Biển Đông (Việt-Nam / Đông-Dương) và New Guinea.[164] Đồ gốm và đá mài t́m thấy trên các đảo trong vùng này chứng-minh những giao-tiếp bằng đường biển đă xảy ra trước khoảng thời-gian 1500 TTL. (Doran, 1973: trang 49.) Khuynh-hướng chung ngày nay đă xác-nhận rằng đồ gốm, đá mài và các tiến-triển văn-minh đầu-tiên đă khởi đi từ vùng b́a lục-địa tại Việt-Nam.

            Khảo-cổ-học tuy xác-nhận buồm h́nh chữ-nhật đă có ở Ai-cập 4,000 năm TTL nhưng cũng cho biết dáng vẻ ấy ít thay đổi suốt mấy ngàn năm sau đó. Thuyền Ai-cập có thể rất to lớn nhưng thường thường di-chuyển được nhờ mái chèo và chỉ hải-hành cận-duyên. Qua đến ngày tàn của đế-quốc này (khoảng 1,200 TTL), loại thuyền buồm thực-sự của người đảo Crete cũng như dân xứ Phoenicia mới xuất-hiện.[165]

Ở Á-Đông, người ta có thể thừa nhận trong khoảng thiên-kỷ thứ 4 hay thứ 3 TTL, người Đông-Dương (và những dân-cư Bách-Việt sống trên đất Tàu ngày nay) đă sử-dụng ghe thuyền đi biển.[166] Theo lẽ đương nhiên, bè mảng chạy buồm có khả-năng đi biển đă xuất-hiện trước khi ấy một thời-gian (Doran, 1971.)[167]

H́nh 95. Thuyền buồm Ai-cập.

 

 V́ người Tàu thời đó c̣n đang sinh sống trên thượng nguồn sông Hoàng-hà, rất xa biển; những thành-tích này hẳn nhiên phải do người Việt, lúc đó đang cư-ngụ ở vùng duyên-hải, thực-hiện. Các tác-giả trên đồng-ư rằng kỹ-thuật chạy buồm Á-Đông đă ảnh-hưởng sang Tây-phương, ngược lại với chiều-hướng suy-tưởng thông-thường.

 

H́nh 96. Thuyền Việt-Nam trang bị các loại buồm tứ-giác tiến-bộ nhất

 

            Nhà khảo-cổ Malcolm F. Farmer, trong khi đi t́m nguồn gốc thuyền bè, đă thấy rằng Vịnh Bắc-Việt là nơi có chứng-cớ nhiều truyền-thống liên-hệ nhất giữa những loại bè thời cổ với thuyền độc-mộc và với các ghe thuyền kiến-trúc có sườn, có khung sau này. Farmer cho rằng chính trên các loại bè, người ta đă phát-minh cánh buồm đầu tiên. Chắc chắn "Bè có trang-bị Buồm" là phương-tiện viễn-duyên đầu tiên của nhân-loại.[168]  

            Theo Robert Temple, tác-giả cuốn sách "The Genius of China, 3,000 years of Science, Discovery and invention"[169], sự tiến-triển vĩ-đại nhất về kỹ-thuật chạy buồm là ở chỗ người Á-Đông đă đi từ chiếc buồm đơn-độc, vuông-vức h́nh chữ-nhật chuyển sang loại buồm với những cây nẹp ngang, có thể trở mạn để đón gió ở cả mặt sau (fore and aft rig - lug sails) mà nhờ đó thuyền có thể chạy chếch ngược về hướng gió (to sail into the wind.) Ông cũng cho rằng :"Không ngoa khi nói rằng thế thượng-phong của Hải-quân Anh phần lớn nhờ ở t́nh-trạng sẵn sàng áp-dụng những phát-minh (Á-Đông) nhanh hơn các cường-quốc Âu-Châu khác".

Sách "Science and Civilization of China" quyển 4, mà tác-giả là 2 người Tàu (Wang Ling & Lu Gwei Djen) và một người Anh (Joseph Needham) đă trích-dẫn cuốn sách Nam-Châu Dị-Vật-Chí của Wang Chen và cho rằng "vào thế-kỷ thứ 3, Tàu thuyền ở Bắc và Bắc Trung-phần Việt-Nam đă rất tiến-bộ, chở được tới 700 người và 260 tấn hàng-hoá, mang bốn buồm không đặt thẳng một hàng dọc nên đón được nhiều gió từ những hướng khác nhau."[170]

 

H́nh 97. So sánh khả-năng chạy ngược gió của các loại buồm. Lưu ư  các thuyền Tây-phương thường chỉ chạy xuôi gió. Buồm Việt-Nam "fore and aft" giúp thuyền đi sát 45 độ so với hướng gió thổi tới.

           

4.10 - Kiến-trúc Mềm Dẻo

Phát-minh của người Việt trong công-tác kiến-trúc tàu bè đáng kể là ở sự mềm dẻo.

             Bà Françoise Aubaile-Sallenave viết nguyên cả một cuốn sách đề-cập rất kỹ-lưỡng đến cách-thức đóng ghe rất tiến-bộ của Việt-Nam[171]. Theo tác-giả này, hai đặc-tính tiên-quyết trong việc kiến-trúc là ghe Tàu phải nhẹ nhàng và có sức chịu đựng. Cả hai ưu-điểm này đều t́m thấy ở các loại thuyền Việt-Nam. Trong khi kỹ-thuật Tây-phương cố gắng cải-tiến làm sao cho sườn và vỏ Tàu được cứng cáp th́ người Việt-Nam từ nhiều ngàn năm qua, vẫn tiếp-tục giữ truyền-thống đóng tàu cho mềm dẻo. Bà Sallenave cũng như những kỹ-thuật-gia kim-thời mới đây đă khám-phá ra rằng muốn kiến-trúc cứng cáp th́ vật-liệu đóng thuyền phải nặng, quán-tính do đó cũng tăng theo, dễ bị bể vỡ v́ sóng gió; thuyền nhẹ và mềm dẻo th́ lực tác-dụng của sóng nước được phân-phối đều trên toàn thể thân thuyền nên sức chịu đựng gia-tăng và thuyền đươc bền bỉ hơn.

 

H́nh 98. So sánh Kiến-trúc Tàu thuyền Việt-Nam và Âu-Châu.

 

- Thuyền gỗ khâu. Cũng trong quan niệm kiến-trúc cổ-truyền và độc-đáo như trên, người Việt đă phát-triển khả-năng vượt bực trong việc chế-tạo nhiều loại thuyền không có cả khung hay sườn mà chỉ với một cách đơn-giản là kết những mảnh ván gỗ vào nhau bằng giây.Những mối giây này được kết vào bên trong nên phiá ngoài vỏ thuyền vẫn phẳng phiu.

            Pierre-Yves Manguin viết trong bài "Sewn-Plank Craft of South-East Asia - A Preliminary Survey" như sau: " Nhiều du-khách người Âu-Châu vào thế-kỷ thứ 17 và 18 đă đề-cập đến các thuyền của Việt-Nam bằng ván khâu lại với nhau. Thuyền này chạy biển hay cận-duyên, được gọi là Sinja (thuyền-gia), thường đi lại buôn bán với Thái-Lan và có nhiều tại Trung-phần Việt-Nam. Một vài chiếc chuyên chở tới 150 tấn hàng-hoá"[172].

            Manguin cho rằng kỹ-thuật đóng ghe loại này đă lan-truyền khắp các đảo Thái-B́nh-Dương qua đường hàng-hải. Nơi trang 338 của cuốn sách trên, tác-giả c̣n ước đoán rằng vào thời-gian người Ai-cập đóng chiếc Tàu cho hoàng-gia Cheops (2,600 TTL), dân Đông-Nam-Á khởi-sự hải-hành ra các đảo ngoài Thái-B́nh-Dương bằng thuyền, có thể phỏng-định là loại ván khâu rất đặc-biệt này.

            Loại ghe này được sử-dụng vài nơi trên thế-giới kể cả Nam-Mỹ, nhưng không ở đâu ghe đạt kỹ-thuật cao và trọng-tải lớn như tại Việt-Nam.

H́nh 99. Kiến-trúc thuyền ván khâu Việt-Nam, có loại chuyên chở được 150 tấn hàng-hoá.

 

- Thuyền đáy mê. Theo cuốn sách "Thanh-thư về Tàu thuyền cận-duyên miền nam Việt-Nam"[173], thuyền có đáy mê (nan tre) là loại thuyền thông-dụng nhất ở Việt-Nam. Hai lối kiến-trúc thường được dùng là đáy mê với mạn thuyền bằng ván be (thành gỗ) và vỏ thuyền hoàn toàn bằng mê. Loại thuyền có vỏ bằng tre đan này nhẹ hơn loại gỗ, dễ thấm dầu chai, chịu đựợc sóng cồn, sức dội khi ủi băi và không bị mọt ăn. Hơn nữa tre rất dễ t́m và rẻ hơn loại gỗ tốt, c̣n đáy tre đan lại dễ thay, vừa nhanh lại vừa rẻ tiền. Đáy nan dùng được chừng 5 năm.Kiến-trúc đan bằng nan tre phổ-cập rất rộng răi với các cỡ ghe thuyền lớn nhỏ, nhiều kiểu như canoes, dinghies, thuyền thúng, thuyền buôn và thuyền đánh cá các loại."

            Jean Yves Claeys cho biết nhiều ghe thuyền ở vùng Nha-Trang có toàn thân làm bằng tre. Chỉ có phần trên làm bằng gỗ. Vỏ thuyền mê có thể bền bỉ tới 20 năm nếu được sử-dụng và bảo-tŕ đúng cách [174],

            Người Việt-Nam là dân-tộc độc-nhất đă phát-triển và hoàn-thiện đủ mọi loại ghe thuyền bằng tre này.[175]

H́nh 100. Thuyền làm bằng nan tre và gỗ. Loại này có lái và cây xiếm mũi (thường gọi là lui-hạ) điều-chỉnh được chiều sâu..

           

4.11 - Thuyền nhiều khoang kín nước

            Theo Malcolm F. Farmer, không những bè mảng là thứ "phương-tiện nổi" đầu tiên được trang-bị buồm; bè mảng c̣n là tiền thân của các loại ghe thuyền có nhiều khoang kín nước ngày nay.[176] Tất cả Tàu thuyền hiện-đại đều kiến trúc thành nhiều ngăn. Người Tàu đă cố-ư "nhận vơ" nhưng người Việt chúng ta mới thực-sự đúng là tác giả của phát-minh quan-trọng này. Lư-lẽ kể ra như sau:

- Bè tre tự nó, theo kiến-trúc là một loại phương-tiện nổi gồm nhiều ngăn kín nước là những lóng tre. Người Việt là giống dân độc-nhất sử-dụng đủ các loại tre, bương trong mọi kiến-trúc ghe thuyền.  

- Bè là phương-tiện nổi đầu tiên xuất-hiện ở người Đông-Nam-Á. Người tiền-sử rất có thể đă dùng nó để vượt biển sang Úc-Châu từ 40,000- 50,000 năm trước. Người Việt phát-triển những kiểu bè mà kỹ-thuật tân-tiến nhất với nhiều buồm, nhiều xiếm và có khả-năng tự-động giữ hướng đi. 

- Khoa khảo-cổ cho biết những thuyền có khoang kín đầu tiên t́m thấy tại Hoa-Nam, nơi người Việt cư-ngụ lúc xưa. Người Việt có loại thuyền rất cổ là Thuyền Ô v́ kiến tạo bằng nhiều ô (khoang) kín nước.

- Người Việt-Nam khởi-sự việc đánh cá trước cả thời Băng Đá; trong khi người Trung-Hoa c̣n sinh-sống trong nội-địa. Ngư-phủ Việt-Nam thích bán cá tươi nên từ lâu hô chứa cá sống trong ngăn đựng nước, có lỗ thông ra ngoài. Đó là một loại khoang kín nước vậy.

- Thuyền của Việt-Nam không những đă được kiến trúc nhiều ngăn, người Việt c̣n thấu-triệt nguyên-lư cân-bằng Tàu thuyền. Chúng ta đựng các chất lỏng trong b́nh, chai, lọ tĩnh trước khi xếp vào khoang thuyền; chúng ta đă nắm được một kỹ-thuật c̣n cao hơn cả ngăn kín nước nữa.   

 

4.12 - Cây Xiếm, Phát-minh Đảo lộn hàng-hải.

            Sau khi người Bắc-Phi và Âu-Châu biết sử-dụng buồm tứ-giác, họ nhờ gió đẩy thuyền đi, nhưng cánh buồm thường thường trở thành vô-dụng v́ không mấy khi thuyền hoàn toàn thuận gió xuôi. Người Địa-trung-hải v́ đó, phát-triển tối-đa năng-lực chèo thuyền của những kẻ nô-lệ, có thuyền trang-bị tới 5, 6 hàng chèo và hàng trăm chiếc giầm. Cuộc đời người chèo thuyền thật nặng nhọc, quá khốn khổ và rất ngắn ngủi. Họ phải làm việc dưới roi vọt, miệng bị nút chặt, chân khoá trong xiềng-xích, thiếu thốn thực-phẩm; ít người sống quá 3 năm và khi kiệt lực rồi, chủ quăng xác xuống biển.

            Cho đến thế-kỷ thứ 15, dù đă có nhiều cải-tiến trong kỹ-thuật kiến-trúc, ngoài khả-năng thông thường chạy xuôi gió, Tàu thuyền Âu-Châu cũng chỉ có thể lợi-dụng gió ngang và đành bỏ cuộc khi gió mạnh thổi ngược chiều.

            Cùng trong sưu-tập "Man Across the Ocean" dẫn-chứng ở đoạn trên, Stephen C. Jett cho rằng: "các ghe Á-Đông, nếu nói đến vận-tốc chạy biển, vượt xa chiếc thuyền chạy nhanh nhất trên thế-giới mà c̣n đi ngược lại được gần với hướng gió hơn bất cứ một chiếc thuyền buồm nào khác". Ngoài hệ-thống buồm hữu-hiệu, cây xiếm đă góp công không nhỏ trong những thành-tích làm tăng-tiến khả-năng hải-hành.

            Trở lại với các h́nh thuyền trên trống đồng Đông-Sơn, ta thấy tiền-thân của những cây xiếm cũng đă xuất-hiện. V́ trên những thuyền này không có người chèo, nên ta cũng có thể hiểu được là thuyền chạy bằng buồm. Ngoài mái chèo lái ở đuôi và mũi, cả đuôi thuyền lẫn mũi thuyền đều có những bộ-phận đưa ra như mảnh ván nhằm chống với sức giạt. Tổng-hợp tác-dụng của nước trên các trang cụ này đủ để giúp cho thuyền giữ một hướng cố-định, nhờ đó thuyền có thể chạy thẳng về phía trước. H́nh-ảnh này không khác mấy với h́nh-ảnh những loại trang-cụ trên bè mảng hay thuyền buồm ngày nay: Bè ở Bắc và TrungViệt-Nam có tới 3 hay 4 cây xiếm, c̣n loại thuyền buồm tiêu-biểu ngày nay ở Trung-phần Việt-Nam có bánh lái cùng cây xiếm h́nh đoản-đao (dagger-board) đặt trong hai lỗ khoét ra ở cả mũi lẫn lái. Loại xiếm ấy không choán chỗ và tỏ ra rất hữu-hiệu trong việc vận-chuyển. Cũng như bánh lái, tầm sâu của xiếm có thể điều-chỉnh được dễ dàng[177] nên thuyền có thể đi vào những nơi nông cạn.

            Giả-thuyết về nguồn gốc cây xiếm này không trái ngược với giả-thuyết nguồn gốc bánh lái được nêu ở một đoạn trên, nó phát-biểu thêm rằng cả bánh lái và cây xiếm đều có thể đă được dân Việt phát-minh nhiều thế-kỷ trước công-nguyên. Cho đến nay, những nét khắc ch́m trên trống đồng Đông-Sơn vẫn là chứng-tích cổ nhất và hiển-nhiên nhất về sự phát-minh lái và xiếm.

            Những cây xiếm h́nh-dáng tương-tự, kể cả thứ xiếm như cây đoản-đao (dagger boards), cũng t́m thấy ở Mỹ-Châu. Các nhà khảo-cổ tin rằng đă có thời chúng được coi như vật thiêng-liêng, làm đồ thờ cúng trong những đền đài.

Cả một hệ-thống xiếm và buồm phức-tạp do thổ-dân Nam-Mỹ sử-dụng trên các bè Balsa trước thời Columbus làm nhiều khoa-học-gia kinh-ngạc và đồng-ư là đă có sự liên-hệ Á-Mỹ trong cổ-thời.[178]

H́nh 101. Trên: Thuyền Đông-Sơn, ngoài 2 mái chèo để lái ra (1), c̣n có 2 trang-cụ như cây xiếm dùng chống giạt (2). Cột buồm nằm ở nửa phần thuyền phía trước (3).

Dưới: Ghe Nang (nan?) ở Trung-phần Việt-Nam với giả-thuyết về sự tiến-hoá của bánh lái và cây xiếm, đi từ những trang-cụ đă có từ cổ-thời.

 

4.13 - Phát-triển đủ mọi loại Xiếm

            Người Việt đă phát-triển đủ mọi loại xiếm. Ngoài loại "phù-bản" thời cổ được tả trong cổ-thư Trung-Hoa[179], loại "mũi, lái" nói trong đoạn trên người ta c̣n thấy những loại như sau:

Trên thế-giới, thuyền có xiếm thường được trang-bị một cây xiếm, nhưng ở xứ ta thuyền bè có thể được gắn nhiều cây xiếm:

  a- Hệ-thống hai xiếm đồng thời ở mũi và ở lái. Cách này chỉ thấy trên các loại thuyền Việt-Nam.[180]

  b- Hệ thống “lái” phối-hợp nhiều tới 3, 4 cây xiếm, một chiếc bánh lái (hay chèo lái). Trên các bè mảng Trung và Bắc-phần Việt-Nam, cách thiết-trí này là một phát-kiến đặc-thù, giúp cho việc vận-chuyển trên biển thật dễ dàng.

            Khi bánh lái gài thẳng lại, chiếc bè như được trang-bị bởi 4 cây xiếm và nhờ điều-chỉnh tầm sâu của xiếm, người ta có thể giữ cho chiếc bè chay buồm theo đúng hướng đi so với chiều gió, không cần người bẻ lái.

H́nh 102. Bè ở Nam-Mỹ-Châu với hệ-thống 9 cây xiếm và một buồm, có chiếc dùng hai buồm. So sánh với bè tre Việt-Nam

 

            Nh́n sang Mỹ-Châu, người ta thấy Thor Hayerdahl đă bỏ nhiều công-lao và cũng t́m ra rằng bè Nam-Mỹ vốn có khả-năng không cần dùng mái chèo hay bánh lái, mà vẫn giữ hướng đi một cách tự-động so với chiều gió. Kỹ-thuật này có lẽ bị lăng quên hồi mới gần đây. Phương-thức vận-chuyển bằng cách điều-chỉnh tầm sâu những cây xiếm được Hayerdahl diễn-tả rơ ràng bằng h́nh vẽ.[181]

            Phát-hiện này rất quan-trọng dùng minh-chứng rằng các bè Á và Mỹ phải cùng một nguồn-gốc, suy rộng ra người Việt chắc chắn đă đến Mỹ-Châu trong cổ-thời.

            Ngoài biển rộng, khi gió mùa thổi đều đặn, nhiều thuyền Việt-Nam giữ hướng đi khá tốt. Kỹ-thuật này được tạm gọi là lái tự-động (auto-pilot). Một ngư-phủ trong khi cho thuyền chạy vẩn rảnh chân tay để thả lưới hay bắt cá.

 

4.14 - Tính-chất Liên-tục của Phát-minh cùng Công-tŕnh Hoàn-bị Kỹ-thuật

            Căn-cứ vào những phát-minh hàng-hải, các nhà nghiên-cứu thấy rằng không có nơi nào trên thế-giới hội-tụ đầy đủ mọi loại ghe thuyền to, nhỏ; thân đơn, kép; mọi loại xiếm mũi, lái, giữa; mọi loại bơi chêo mái chèo mũi, lái, giữa; mọi loại buồm vuông, tam-gác, đơn kép... như tại Việt-Nam. 

Đủ mọi loại trang-cụ thuyền bè cùng nhau đă tồn tại ở Việt-Nam. Người ta thấy trang-cụ thô-sơ nhất là cách ôm một cây tre bơi bắng tay, đạp bằng chân ra khơi đâm cá. Người ta cũng thấy loại thuyền hoàn-bị nhất, phức-tạp nhất như thân gỗ vỏ mê tre, trang bị năm buồm, có lái, có xiếm, phao phụ bên hông thuyền và không cần người bẻ lái, thuyền tự-động giữ lấy hướng đi

           

H́nh 103. Bè Sầm Sơn Thanh-Hóa với trang-bị tối-đa 3 cánh buồm và 4 cây xiếm.

 

4.15 - Kỹ-thuật cao đi trước Tiến-bộ Điện-tử

            Chúng tôi đă có ư t́m xem có cuốn sách nào bằng Việt-ngữ nói tới cách "lái thuyền bè tự-động" ở xứ ta nhưng không thấy. Nếu có người Việt-Nam nào viết trước đây th́ tài-liệu đă mất mà nay th́ có thể rằng kỹ-thuật ấy đă bị sao lăng và cũng không c̣n ai quan-tâm tới chăng!

Tuy sách Việt-ngữ không có hay bị mất mát, nhưng chúng tôi đă nhận ra nhiều tài-liệu rất lạ đến từ Tây-phương. Các tác-giả này là người Âu-Mỹ đă biết và viết ra nhiều điều về hoạt-động hàng-hải người Việt hơn là chính người Việt viết cho chúng ta.

Trong nhóm này, hai Ông Pierre Huard và Maurice Durand cho rằng thủy-thủ những ghe Mành ở Cửa Ḷ biết cách-thức điều-chỉnh các cánh buồm làm sao cho phù-hợp với sự điều-chỉnh cây xiếm để chiếc ghe có thể chạy mà không cần người lái trên những hải-lộ định trước. Thuyền tự nó lái lấy và giữ hướng đi trong nhiều ngày dài, không cần phải sửa đổi tay lái.[182]

Hai ông này dẫn-chứng tài-liệu của Laurent: "Voyage de Pierre Poivre" (1749-1750), viết lại theo lời kể khá chi-tiết của nhà ngoại-giao Pierre Poivre về cách điều-khiển "thuyền có lái tự-động". Ông Poivre là người Pháp đến thăm viếng Việt-Nam với hy-vọng được Vua chúa ta mở cửa giao-thương. Ông đă quan-sát và báo-cáo các sinh-hoạt của dân Việt-Nam trong những năm vào giữa thế-kỷ 18. (1749-1750.)

Vào khoảng thập-niên 1930, nhà hàng-hải Pierre Paris cũng nghiên-cứu tới việc sử-dụng những cây xiếm trên thuyền Việt-Nam. Sau khi đă duyệt qua một số tài-liệu bàn về ghe thuyền quốc-tế, Paris tin tưởng rằng sự tương-đồng trong cách thức đi bè "không người lái" của người Việt-Nam và thổ-dân Nam-Mỹ là một trong nhiều cách chứng-minh xác-đáng nhất về sự giao-liên trực-tiếp giữa hai đại-châu Á và Mỹ. Qua cuốn sách "Phác-thảo dân-tộc-học Thuyền bè Việt-nam", Ông đề-nghị các khoa-học-gia nên nghiên-cứu sâu xa đặc-tính của những cây xiếm và bè Trung-phần Việt-Nam.[183]

 

4.16 - Tính-cách Nhân-bản trong Sinh-hoạt Hàng-hải Việt-Nam

            Dựa vào những tài-liệu khả-hữu, phương-tiện hạn hẹp, lại chỉ được nghiên-cứu sơ-sài, người viết xin tóm lược hai nhận xét sau đây có tính-cách "triết-lư" đặc-thù về phát-minh hàng-hải Việt trong cổ-thời :

- Tính-cách nhân-bản và thiên-nhiên. Trong khi tung-hoành trên biển cả kiểu "giang-sơn nào anh-hùng ấy" nhưng dân Việt không làm hải-tặc, không chứng-cớ nào buộc tội tổ-tiển ta về cướp bóc tài-sản hay bắt bớ nô-lệ dù chỉ là để chèo thuyền. Tinh-thần sáng tạo của dân ta hướng về nhân-bản và thuận theo thiên-nhiên. Phát-minh như buồm, xiếm... mục-đích là lợi-dung sức gió thay cho sức người khỏi phải lao-lực trên mái chèo. Kiến-trúc Tàu bè mềm dẻo để toàn thể thân thuyền hấp-thụ bạo-lực của sóng gió, nhờ đó thuyền được bền bỉ và cũng giúp thủy-thủ đỡ mệt mỏi v́ sức dội.

- Tính-cách thảo-mộc. Người Việt yêu nước và cũng yêu cây cỏ. Phát-minh liên-hệ đến kiến-trúc Tàu bè dùng toàn nguyên-liệu thảo-mộc tại địa-phương. Dù là giống-dân tiên-phong trong lănh-vực luyện-kim đồng và sắt, nhưng cho đến thời-đại gần đây người Việt-Nam vẫn hoàn-toàn không dùng đến kim-loại hay khoáng-chất, dù chỉ một chiếc đinh hay một lớp sơn xảm trong khi đóng ráp ghe thuyền.

 

 

H́nh 104. Các kiểu ghe thuyền Việt-Nam đầu thế-kỷ 20 theo Pierre Paris – Ông Pierre Paris và nhiều học-giả Âu-Mỹ như Đô-Đốc Paris, Joseph Needham… biết nhiều về cổ Hàng-hải Việt-Nam hơn chúng ta ngày nay rất nhiều

 

            Hải-sử phần Cổ Việt trong vùng Vịnh Bắc-Việt hoàn toàn c̣n là những vùng đất chưa được khai-thác nhưng đầy các điều hưũ-ích và thích-thú. Trên đường đi t́m về nguồn gốc, thiết-tưởng người dân Việt chúng ta nên dành ra một chút th́-giờ và tiền bạc nghiên-cứu rộng răi hơn lănh-vực này.

            Trường-hợp những đoạn trên chưa đủ thuyết-phục, xin mời quư độc-giả theo-dơi thêm tài-liệu chi-tiết chúng tôi liệt-kê đầy-đủ mấy chục phát-minh hàng-hải của người Việ-Nam trong cuốn sách tới.

 

4.17 - Sự tiến-bộ của Hải-Quân thời Hùng-Vương

Khoa khảo-cổ Trung-Hoa từ đời Tống đă phát-triển, nhưng không có một ai chú-ư tới trống đồng với tư-cách một hiện-vật khảo-cổ. Lư Đại Lâm với tác-phẩm "Khảo-Cổ-Đồ" không hề nhắc tới trống đồng v́ cho rằng không có minh-văn, không có giá-trị sử-liệu.[184]. Sự lầm lẫn này quá lớn và đáng tiếc.V́ nhiều lầm lẫn khác cũng tương-tự như vậy, văn-hoá Tàu không coi trọng hàng-hải. Học-giả người Anh, G. R. Worcester, đă từng than rằng:

"... Và thế là chúng ta đành bỏ cuộc t́m kiếm với niềm tiếc rằng những tranh vẽ, văn-chương và sản-phẩm văn-hoá của người Tàu dưới mọi h́nh-thức, mặc dù có truyền-thống đáng kể liên-tục hơn 2,000 năm mà lại chứa đựng rất ít về tàu thuyền và thủy-thủ". (The Junks & Sampans of the Yangtze, U.S. Naval Institute Press, 1971: 17.)

Ngày nay, ai ai cũng biết rằng nội-dung h́nh vẽ thường thường có khả-năng biểu-lộ tư-tưởng tương-đương với cả ngàn lời, ngàn chữ. Trong khoa khảo-cổ, các nét trạm-trổ hay họa-h́nh thời xưa có giá-trị vô cùng to lớn. Riêng Trống Đồng là những sử-liệu quan-trọng, tự nó nói lên được nhiều chi-tiết xác-thực hơn cả "minh-văn".

T́nh-trạng quân thủy thời Hùng Vương đă được người xưa diễn-tả rơ ràng qua các h́nh khắc trên trống đồng của nền văn-minh Đông-Sơn.

Rất nhiều chi-tiết chứng-minh rằng Hái-Quân thời Hùng-Vương cách nay khoảng 3,000 năm đă tiến-bộ đến độ ít người ngờ tới. Các sách nghiên-cứu về Trống Đồng như cuốn "Trống Đông-Sơn", do Viện Khảo Cổ Học biên-soạn (Hà Nội, 1987), tŕnh-bày rất nhiều chi-tiết lư-thú. Chúng tôi chỉ xin kể sơ-lược một số điểm chính-yếu trong đoạn sau đây:

- Chiến-thuyền lớn có bánh lái (Phạm-Cao-Dương, Lịch-sử dân-tộc-Việt-Nam, quyển 1, 1987, trang 45-46.) Chiến-thuyền Tây-phương chỉ trang-bị bánh lái vào thế-kỷ thứ XII (China's Civilization, Arthur Cotterell & David Morgan, New York, 1975.)

- Chiến-thuyền đi biển chạy buồm. Loại này không có thủy-binh chèo chống, có trụ để dựng cột buồm.

- Vũ-khí trang bị rất hùng hậu, gồm nhiều loại :

* Tầm xa: nỏ thần thiết-trí trên thượng tầng kiến-trúc. Cánh nỏ và mũi tên lớn quá khổ (2-3m). Có lẽ dùng tác-xạ liên-hoàn loại tên bằng đồng hay tên lửa.

* Tầm trung: giáo dà́ (2-2.5m)

* Cận-chiến: ŕu chiến

* Nhiều thuyền có chó săn (quân-khuyển)

* Một số thủy-binh mang khiên, lá chắn.

 

 

H́nh 105. Nỏ thần trên chiến-thuyền đời Hùng-Vương. Pháo-tháp có lẽ được trang-bị cơ-quan máy móc để nạp pháo-tiễn liên-hoàn. Loại Nỏ thần này được ghi nhận trong sử Trung-Hoa.

 

- Kiến-trúc chiến-thuyền có những điểm khác nhau cho những nhiệm-vụ đặc-biệt

* có lầu cao[185], dùng như pháo-tháp cho vũ-khí tầm xa.

* thuyền thân cong dùng cho nhu-cầu vận-tốc cao.

* thuyền có phần mũi thấp hơn để đổ-bộ được dễ dàng.

H́nh 106. Chiến-thuyền có lầu (lâu-thuyền). Pháo-tiễn hướng về trước mũi hay sau lái tuỳ theo nhiệm-vụ tác-chiến.

 

   

- Tổ-chức Hải-Quân có lẽ đă khá chặt chẽ. Người ta quan-sát thấy những chi-tiết như:

* cách trang-phục của thủy-thủ khác nhau tùy theo nhiệm-vụ như thuyền-trưởng, thủy-binh cận-chiến, nhân-viên hải-pháo hay lái thuyền. Tuy nét vẽ không đủ chi-tiết nhưng khi phân-tích, người ta thấy dường như Hải-Quân thời Hùng-Vương đă có đồng-phục riêng cho từng chuyên-nghiệp.

* cách phân-nhiệm chiến-thuyền trong hạm-đội như:

(i) thuyền chuyên dùng tấn-công với tư-thế sẵn sàng của chiến-binh và pháo-tiễn hướng về phía trước.

(ii) thuyền hộ-tống hay giữ an-ninh hậu-tập có pháo-tiễn và chiến-binh quay về phía sau.

* phương-tiện truyền-tin và mệnh-lệnh: trồng đồng.

- Một điểm đáng kể ra nữa là nhiều chiến-thuyền được trang-bị ở phía mũi một trang cụ giống như cây xiếm. Trang cụ loại này giúp cho thuyền chạy buồm có thể thay đổi hướng đi hay giữ đúng hướng không cần người lái.[186] Kỹ-thuật Việt-Nam kiểu "auto-pilot" này là một bước tiến vượt thời-gian mà phần lớn Tàu thuyền chỉ mới thực-hiện được ngày nay.

 

4.18 - Thử-nghiệm Thuyết Xuyên-dương

Robert Von Heine-Geldern trong suốt một phần tư thế-kỷ kể từ 1939, đă viết rất nhiều về giao-tiếp Á-Mỹ.  Ông liệt-kê thành hệ-thống những điểm tương-đồng, lưu-tâm khá nhiều đến nền văn-minh Đông-Sơn. Ông cho rằng những dân đi biển ở Đông-Á tới Mỹ-Châu trước hết, người Ấn nhờ học hỏi kinh-nghiệm người đi trước, cũng vượt Thái-B́nh-Dương đến sau.  Tàu thuyền Đông-Nam-Á và Ấn-Độ có thể cũng hải-hành về hướng Tây, vượt cả Đại-Tây-Dương tới Mỹ một cách ngẫu-nhiên.

            Người nước ngoài không những thích-thú trong việc  khảo-cứu thuyền bè nước ta, c̣n quyết-tâm muốn thử-nghiệm lư-thuyết “người Việt cổ xuyên-dương” nữa. Những người can-đảm, không sợ hiểm-nguy làm bè Đông-Sơn, đóng thuyền Cổ Việt để vượt đại-dương có lẽ đă xảy ra từ lâu. Chúng tôi được biết có chuyến đi như vậy được báo-cáo chính-thức qua sách vở kèm theo cả bản-đồ hải-hành cùng sơ-đồ kiến-trúc thuyền bè của họ.

            - Kuno Knobl, một phóng-viên Đức làm cho Đài truyền-h́nh Úc, sau khi thấy "chùm giây buộc nút" (knotted cords - kết-thằng) trong viện Bảo-tàng ở Huế giống y hệt loại Quipu của Peru, nh́n nhận ra rằng đă có sự giao-tiếp trực-tiếp giữa hai nơi Việt-Mỹ.  Để chứng-minh niềm tin của ḿnh là đúng đắn, Knobl đứng ra quyên góp tiền bạc, đóng thuyền buồm theo kiểu cổ-thời Đế-quốc Nam-Việt để xuyên Thái-B́nh-Dương. Knobl muốn khởi-hành chuyến thử-nghiệm từ Việt-Nam nhưng không được v́ lúc đó chiến-tranh đang hồi ác-liệt. Knobt đành thực-hiện chuyến đi từ Hồng-Kông sang Mỹ-châu với thủy-thủ-đoàn 8 người từ Hồng-Kông đi Mỹ-Châu trên thuyền Taiki (Thái-Cực). Nếu biết cách trị con hà (teredo, một loại sâu gỗ thân mềm, đục thủng ván gỗ làm hư hỏng vỏ thuyền) th́ họ đă tới bờ biển Mỹ-Châu. Cuối cùng, Kuno Knobl phải nhờ thương-thuyền cứu giúp.  Sách viết bằng Đức-ngữ, nhan-đề "Thái-Cực", bản dịch Anh-ngữ: Tai-Ki, Journey to the Point of No Return.[187]

H́nh 107. H́nh thuyền Taiki đóng theo kiểu thuyền người cổ Việt với 2 cây-xiếm kiểu “phù-bản”

- Tim Severin, v́ thán-phục học-thuyết "xuyên-dương" của Joseph Needham[188] nên đă quyết-tâm minh-chứng rằng người Á-Đông thuộc nền Văn-hoá Đông-Sơn đă tới Mỹ nhiều ngàn năm trước đây.

            Severin là một nhà văn Ái-nhĩ-Lan rất ưa thích việc khảo-cứu về hàng-hải. Chiếc bè của Ông được đóng tại Sầm-Sơn (Thanh-Hoá, Việt-Nam) gồm có 220 cây luồng buộc lại với nhau bằng những giây leo trong rừng dài tới 46km. Đặc-biệt để giữ nguyên kỹ-thuật xưa, thợ làm bè không dùng đến một chiếc đinh nào bằng kim-loại. Thủy-thủ đoàn gồm có 5 người, trong đó có một người Việt-Nam. Họ lái chiếc bè này bằng cách điều-chỉnh độ nông sâu của 10 chiếc xiếm, vào ra những nơi chật hẹp có nhiều tàu thuyền qua lại như hải-cảng Hồng-Kông và quần đảo Ryukyu.  Đoàn “thám-hiểm” đă hải hành phần lớn một cách tư-động, không người lái, vượt qua 5,500 hải-lư, tức là gần hết hải-tŕnh xuyên Thái-B́nh-Dương[189] (chừng 6,500 hải-lư). Nếu Severin nắm vững được cách sơn kín nước th́ những luồng đă không ngập nước và họ có thể đă thành-công.

 

H́nh 108. B́a sách in h́nh-ảnh chiếc bè Sầm-Sơn. Kuno Knobl muốn chứng-minh rằng người Việt đă vượt Thái-B́nh-Dương

mấy ngàn năm trước đây.

 

 

 

 

H́nh 109. Thuyền Buồm trên tiền đồng -100 đồng- năm 1986

 

Nghề đánh bắt cá đèn: Cách đây vài chục năm trên vùng biển Quảng Ninh c̣n rất phổ biến nghề đánh cá đèn. Khi đèn thắp sáng trong đêm th́ cá đua nhau t́m đến và người ta bủa lưới bắt cá. Du khách có dịp đi cùng thuyền đánh cá đèn tha hồ mà ngắm nh́n tôm cá tung tăng bơi lội dưới ánh đèn.

 

 

 

 


Chương 5

Địa-lư Sinh-Học

 

5.1 - Sinh-Vật tại Việt-Nam

Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ cho biết "thực-vật chúng Việt-Nam có lẽ gồm vào khoảng 12,000 loài, không kể rong, rêu, nấm. Đó là một trong những thực-vật chúng phong-phú nhất thế-giới. Với một diện-tích to hơn nước ta tới ba mươi lần, Canada chỉ có vào 4,500 loài, kể cả loài du-nhập[190] ".

 

 

H́nh 110. Các loài sinh-vật Việt-Nam so-sánh với sinh-vật toàn-thể thế-giới .*Trong 12,000 loài  thực-vật, mới chỉ chừng 7,000 loài được thống-kê.

 

Với một diện-tích đất đai chỉ có chừng 2 phần ngàn (.2%) bề mặt lục-địa-thế-giới[191], sinh-vật Việt-Nam chiếm tới sáu, bảy phần trăm các loài. Dù tŕnh-độ khoa-học c̣n yếu kém, Việt-Nam chưa được khám phá được đúng mức mọi loài sinh-vật, 6.2% thực-sự là một tỷ-lệ quá lớn lao.

Theo tổ-chức Công ước Đa dạng Sinh-học th́ Việt Nam là một trong 16 nước có mức độ đa-dạng sinh-học cao nhất trên thế-giới. Việt Nam có khoảng 12,000 loài thực-vật, 620 loài nấm và 820 loài rêu. Hệ thực-vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao, số loài đặc hữu chiếm 40% tổng số loài thực-vật đă định tên. Hệ động-vật cũng có mức độ đặc hữu rất cao: 78 loài thú và loài phụ thú, hơn 100 loài chim và loài phụ chim, 7 loài linh trưởng là những loài đặc hữu hẹp của Việt Nam. Rừng Việt Nam c̣n có một số loài thú quư hiếm, mà thế-giới đang cảnh báo có thể sẽ bị tuyệt chủng như voi châu Á, tê giác một sừng, ḅ tót, hổ báo, v.v... Trong thập niên 90, thế-giới khám phá ra 10 loài thú mới, trong đó ở Việt Nam có 4 loài, đó là sao la, mang lớn, mang Trường Sơn và mang Pù Hoạt.

Sinh-vật càng đa dạng th́ khi môi-trường sinh-sống thay đổi, số loài có cơ-hội bị tiêu-diệt càng nhiều hơn. Trách-nhiệm bảo-toàn sinh-vật của xứ ta do đó năng-nề hơn so với các xứ khác. Một điều ít người lưu-tâm là những sinh-vật chim, cá, rùa, nhuyễn-thể ngoài biển cũng như những loài sinh sống trên vùng duyên-hải đều cần những nỗ-lực bảo-tồn như nhau.

 

H́nh 111.  Tê-giác một sừng- Rhinoceros sondaicus annamiticus có ở Việt-Nam và ở Java ( Javan rhinoceros)

 

5.2 – Các hệ Sinh-thái Việt Nam và Du-Lịch

Việc liệt-kê và hệ-thống-hoá các vùng sinh-thái của Việt-Nam hiện vẫn c̣n chưa hoàn-toàn nhất-trí. Theo Tổng-Cuộc Du-Lịch th́ hệ sinh-thái ở Việt Nam bao gồm 5 loại điển h́nh:

- Hệ san hô,

- Vùng cát ven biển,

- Vùng đất ngập nước,

- Rừng khô hạn và

- Rừng ngập mặn.

Theo cách phân-chia dựa trên yếu-tố nước này, người ta thấy ảnh-hưởng của Biển Đông với sinh-thái Việt-Nam và rơ rệt hơn nữa của Vịnh Bắc-Việt đối với “vùng đất khai-nguyên” nước ta thật rơ rệt. Ngoài những “Rừng Khô Hạn” có vẻ xa với biển, các Hệ san hô, Vùng cát ven biển, Vùng đất ngập nước và  Vùng ngập măn nếu không “thuộc” biển, th́ cũng sát biển hay chịu tác-động của biển. Những sinh-vật bao gồm cả động-vật lẫn thực-vật phải thích-nghi với các môi-trường có nhiều hay ít nước đó mới có thể tồn-tại.

Khi phổ-biến kế-hoạch “Du lich sinh thái trong các khu bảo tồn thiên nhiên - Định hướng chiến lược trong thế kỷ mới”[192] Tổng cục Du-Lịch đă đặt nặng “chiến-lược” ở yếu-tố sinh thái và các khu bảo tồn thiên nhiên. Người ta mời du-khách thăm-viếng những cảnh-quan cạnh bờ nước, hải-đảo, các công viên quốc-gia, những khu bảo-tồn sinh-vật có cảnh sơn thủy hữu-t́nh.

 

5.3 – Chim biển Vịnh Bắc-Việt 

Những động-vật chính của Vịnh Bắc-Việt cũng như ngoài Biển Đông là các loài chim, rùa, tôm cá, các loài giáp sát, nhuyễn thể: tôm, mực, trai ngọc, bào ngư.. .

Các đảo là những nơi ẩn-trú của các loài chim biển, nhất là chim hải-âu. Chim bay ra biển kiếm ăn rồi trở về đảo, chúng đẻ ngay trên đất, không cần làm tổ. Trứng của chúng to hơn trứng gà, vỏ mỏng mầu trắng điểm nhiều đốm đen. Hải-âu trên Biển Đông (họ Laridae) không lớn lắm, ít con nào sải cánh (wing-span) tới 80cm. Người Việt chúng ta thường gọi chung các chim biển đủ mọi loại là "hải-âu". Thật ra theo khoa-học, hải-âu có nhiều loại khác nhau. Giống hải-âu to lớn Albatros (họ Diomedeidae, sải cánh tới 3.5 m) không thấy xuất-hiện tại Vịnh Bắc-Việt.

Chim “hải-âu” Laridea sinh sống suốt đời ngoài biển, chúng chỉ dành một phần nhỏ cuộc đời trên hải-đảo. Theo sự tiến-hóa chân chim biến-đổi, có màng để bơi lặn trong nước. Đường thực-quản của chim có cơ-phận đặc-biệt để loại bớt chất muối hiện-hữu quá nhiều trong nước biển. Chim rất nhanh nhẹn ngoài biển cả, trên không lẫn dưới nước; nhưng di-chuyển chậm chạp trên bờ. Chúng không biết leo cây, thường đậu trên băi, đẻ trứng trên cát và không làm tổ. Đời các chim hải-âu khá dài, chúng có thể sống tới 36 tuổi hay lâu hơn nữa.

 

H́nh 112. Chim hải-âu thuộc họ Laridés

 

Ngoài chim Laridae, người ta thấy nhiều loại yến và én biển với cái đuôi chẻ ra h́nh chữ V. Trên các đảo có các chim Stéganopodés và Zosterops là "Chim Sâu Nghệ"[193]

 

H́nh 113. Chim Báo Băo Shearwater

 

Trong các loài chim biển, có một loài chim thường ít gặp tại vùng duyên-hải, nhưng khi ta thấy chúng bay th́ có thể băo đang thổi tới. Đó là chim báo bão hay mòng biển. Loài chim này thích sinh-hoạt ngoài biển khơi, tránh xa đất liền chỉ khi nào gặp phải sóng to, băo lớn mới bị lạc vào bờ mà thôi. Chim báo bão lớn hơn chim bồ câu một chút, cánh và lưng đen, bụng trắng.

Một con chim báo bão (Manx shearwater) mới đây đã làm các chuyên gia sửng sốt, khi nó dọn ổ để đẻ và ấp lứa con mới trong lễ “thượng thọ” 50. Đây là con chim già nhất nước Anh, được tìm thấy ở bờ biển phía bắc xứ Wales.

Theo tính toán của các nhà khoa học, ở tuổi 50, với vô số lần di cư giữa hai lục địa Âu-Châu và Nam-Mỹ, con chim báo bão già nua này đã bay tổng cộng 8 triệu km, gần gấp 20 lần quãng đường giữa trái đất và mặt trăng.[194]

 

H́nh 114. B́a sách “Chim Việt Nam”

 

Một số chim biển khác nữa sinh sống trong Vịnh Bắc-Việt có thể t́m thấy trong cuốn sách “Chim Việt-Nam”[195]. T́nh-trạng chung của cá, chim, rùa… vùng trung-tâm Vịnh hiện-thời đang thay đổi. Ḥn đảo độc nhất ở giữa vùng là Bạch-Long-Vĩ nay đă có cả ngàn người cư-trú. Người chiếm chỗ trú-ẩn của chim và nơi sinh-sản của chim cũng bị mất luôn.

 

5.4 - Rùa Biển và Rùa Nước Ngọt 

Rùa biển sinh sản trong vùng nhiệt-đới. Rùa đẻ trứng vùi trong cát. Trứng rùa cần nhiệt-độ cao mới nở được. Rùa biển Việt-Nam rất to lớn, từng là đề-tài những câu truyện của những người Trung-Hoa và Âu-Châu lúc xưa. Cũng như chim biển, rùa biển cũng đă bị con người cướp mất đảo là khoảng không-gian sinh-tồn của chúng nơi giữa Vịnh Bắc-Việt.

Loài rùa biển da dày (leather turtle) hay con vít rất lớn, có thể dài tới 2,7 mét, nặng 900 kg. Một loại rùa biển khác có giá-trị thương-mại đáng kể là đồi-mồi. Nhiều sản-phẩm rất mỹ-thuật làm bằng mai đồi-mồi bán được giá cao trong cả hai thị-trường quốc-nội và quốc-ngoại. Khi để lớn hết cỡ, mỗi con có thể cho tới 3.6Kg đồi-mồi. V́ bị đánh bắt bừa băi từ lâu, giống đồi mồi chỉ c̣n được nh́n thấy rất ít ở Hải-Ninh cũng như tại các nơi khác trong Vịnh Bắc-Việt.

 

H́nh 115. Tem thơ Sự-tích Hoàn-Kiếm: B́nh-Định-Vương Lê-Lợi trả lại Linh-kiếm cho Rùa vàng của Hồ Gươm

 

Rùa nước ngọt, đặc-biệt là rùa Lê-Lợi Hồ Hoàn-Kiếm (Rafetus leloii) và Thần Kim-Quy (Rùa Vàng) xuất-hiện trong văn-chương và lịch-sử nước ta rất nhiều lần.

 

H́nh 116. Khi An-Dương-Vương thua trận, chạy đến Núi Mộ-Dạ th́ Thần Kim-Quy hiện lên… 

 

Rùa là loài động-vật máu lạnh (biến nhiệt), do có cơ quan hô hấp phụ nên có thể lặn sâu dưới nước cả tuần, thậm chí cả tháng. Rùa thường ăn rong, tảo và cả các động-vật như tôm, cua, cá... Rùa biển có con nặng đến 600-700kg. Tại tỉnh Ḥa B́nh năm 1993, người dân bắt được một con thuộc loài ba ba lớn (có đặc điểm tương-đối giống rùa hồ Gươm) nặng đến 121kg.[196]

 

H́nh 117. Một loại Rùa thường thấy trên đất Việt-Nam. Batagur baska (Gray 1831). Illustration by Urs Woy.

 

5.5 - Vùng bay của Chim Di-điểu

            Việt-Nam nằm trên bờ phía Đông của bán-đảo Đông-dương. Động vật nước ta được xếp vào phạm vi “động vật viễn đông”. Bản-đồ ghi nhận Bán-đảo Đông-Dương và Biển Đông nằm ở khu trung-ương những đường bay thường-xuyên của các giống chim di-cư, gọi theo một tên quen thuộc của giới điểu-học là Đường Bay Á-Đông/Úc-Đại-Lợi “East Asian – Australasian Flyway”.

Có nhiều loại chim di-điểu nhận nước ta làm nơi tạm-trú trong cuộc đời nay đây mai đó của chúng. Nhiều loài chim từ Tây-Bá Lợi Á bay xuống cũng như Úc-Châu bay lên, ghé qua và tạm ngừng nghỉ một vài tuần hay năm ba tháng tại đây.

Người ta biết rằng động-vật di-chuyển để kiếm thực-phẩm. Khi mùa thay đổi, thường là vào mùa Đông, đồ ăn khan-hiếm ở vùng vĩ-độ cao, thú-vật và chim-chóc đều đi t́m thực-phẩm. Giống chim nhờ bay nhanh, hợp thành đoàn cùng di-chuyển về phía xích-đạo có nắng ấm để kiếm ăn.

            Ngỗng và Vịt trời bay rất xa ở cao-độ tới 29,000 feet, tức là cao hơn cả núi Everest. Bộ lông chúng giữ nhiệt rất tốt, chúng dùng may áo ấm. Trước khi bay hay khi v́ đói, mệt phải nghỉ lại, các loài chim di-điểu cần ăn thật nhiều để có sức thực-hiện cuộc hành-tŕnh. Có con tăng trọng-lượng thân-thể lên gấp rưỡi.

           

H́nh 118. Đường bay của di-điểu “East Asian – Australasian Flyway”.

 

Trên 200 loài chim tham gia vào đường bay này, một số chim quư như 15 loài di trú đang bị đe doạ tuyệt-chủng trên thế giới cũng t́m thấy ở Việt-Nam. Những loài tiêu-biểu thuộc họ vịt trời, c̣, én… có tên Khoa-học kèm Anh-Ngữ như sau:

Gaviidae           Loons               Vịt    

Podicipedidae    Grebes              Cộc trắng

Phalacrocoracidae Cormorants   C̣ng Cọng

Pelecanidae      Pelicans            Chằng bè

Ardeidae           Herons, Egrets and Bitterns Diệc

Ciconiidae         Storks               Hạc

Threskiornithidae Ibises and Spoonbills C̣ Th́a

Phoenicopteridae Flamingos       Hồng-hạc

Anatidae           Swans, Geese and Ducks Ngỗng

Gruidae             Cranes              Sếu

Laridae             Gulls, Terns and Skimmer  Hải-âu

Rallidae            Rails, Gallinules and Coots Cuốc

Charadriidae     Plovers             Óc cau

Heliornithidae    Finfoots

Jacanidae          Jacanas

Dromadidae      Crab Plover

Haematopodidae Oystercatchers

Recurvirostridae Stilts and Avocet

Glareolidae        Pratincoles

Scolopacidae     Sandpipers

 

           

H́nh 119. Những nhà điểu-học Úc-Đại-Lợi cho rằng giới-hạn của “East Asian – Australasian Flyway”rất rộng

 

Những loài chim sinh sống trên các băi biển cũng là các loài chim di-điểu tham-dự vào đường bay East Asian – Australasian Flyway[197]. Đó là những con chim ăn cua, ốc, dă-tràng, ṣ hến...

 

5.6 - Di-điểu Thuần-hóa thành Gia-súc

Trong những loài di-điểu, nhiều loài đă được người Việt-Nam thuần-hóa thành gia-súc từ lâu như:

- Vịt, Ngan để lấy thịt và trứng

- Ngỗng được nuôi để ngoài mục-đích lấy thịt, đôi khi dùng để dữ nhà như chó. Khi thấy người lạ, chúng vừa kêu lớn vừa nhảy tới mổ cắn dữ tợn.

- Chim c̣ng cọc (cormorant) có khả-năng lặn xuống bắt cá. Người ta cho nó đeo một cái ṿng ở cổ để ngăn nó nhuốt cá. Khi nào c̣ng cọc bắt được nhiều cá, ṿng được lấy ra cho chúng ăn.

- Các loài chim quư, đẹp, tiếng hót hay nuôi làm cảnh như khiếu, hoạ mi, sáo, vẹt, yểng, công, trĩ… Mới đây có phong-trào nuôi cả cu gáy, bách thanh, khuyên và chim sẻ Nhật Bản.

 

H́nh 120. Chim C̣ng Cọc -Double-crested Cormorants- là loài di-điểu

 

H́nh 121. Chim C̣ng Cọc bắt cá rất giỏi.

 

 

 

 

H́nh 122. Ngỗng trời (Graylag Goose) là loại chim di-điểu nặng tới 4.5Kg. Vùng sinh-sống của chúng rất rộng lớn, gần như khắp lục-địa Á-Châu.

           

 

H́nh 123. Chim Bồ Nông xem ra có vẻ năng nề, nhưng là giống di-điểu bay xa nhiều nơi.

 

5.7 - Hệ Động-vật Hoang-dă trên các Đảo  

Theo thống-kê gần đây của Viện Hải-dương-học Việt-Nam, các vùng biển và bờ biển nước ta có 94 loài thực-vật ngập mặn, 2,175 loài cá biển, 21 loài ḅ sát, 21 loài thú biển...và 1,290 loài động thực-vật sống trên các đảo và quần-đảo. Không chỉ đa-dạng về loài, vùng biển Việt-Nam c̣n được đánh giá là đa-dạng về hệ sinh-thái tiêu biểu của vùng biển nhiệt-đới, với rạn san-hô, cỏ biển, rừng ngập mặn...

Thế nhưng trừ một số đảo lớn như Cát Bà, Vĩnh Thực, Cái Bầu v.v... c̣n giữ được lớp phủ rừng tương-đối tốt, tuyệt đại bộ phận các đảo khác chỉ c̣n trảng cây bụi thứ sinh (thí-dụ ở Bạch-Long-Vĩ), trảng cỏ thứ sinh, trảng cây bụi (trên các đảo đá mẹ granit hay ngay cả trên đá badan). Sự mất lớp phủ rừng làm cho đất dễ bị xâm thực nên thường mỏng và có nơi trơ đá gốc như mọi người đều biết, nhưng tai-hại hơn là làm thiếu vắng ḍng chảy trên mặt, đặc biệt là ḍng chảy thường xuyên. Trong số hàng ngh́n đảo ven bờ, các ḍng chảy thường xuyên các sông hoặc ngay cả suối - chỉ thấy có ở quần-đảo Cô Tô - Thanh Lam, Cái Bầu, Cát Bà.  

 

H́nh 124. Vùng đảo đá vôi trong Vịnh Hạ-Long là một sinh-cảnh đặc-biệt, c̣n cần được nghiên-cứu thêm   

 

Khu hệ động-vật hoang trên các đảo cũng tương tự như trên đất liền tiếp cận. Do bị ngăn cách với bờ biển bởi những khoảng không-gian nước rộng hay hẹp tùy nơi, động-vật trên các đảo ít bị săn đuổi và triệt hạ nhanh chóng như trên đất liền. Diện-tích đảo cũng đóng vai tṛ quan-trọng: những đảo lớn như Phú Quốc, Ba Mùn, Côn Đảo, Cát Bà c̣n giữ được khá tốt tính đa-dạng sinh-học. Đảo Cát Bà cùng với Côn Đảo được công-bố là vườn quốc-gia. Một số loài động-vật chỉ thấy có trên các đảo chứ ít khi gặp trên đất liền, thí-dụ như voọc đầu trắng ở Cát Bà. Có thể đấy là những loài đặc hữu mang nhiều ư nghĩa khoa-học và kinh-tế.

 

5.8 - Ếch Nhái không thích Biển

Việt-Nam có hơn 80 loài lưỡng cư phân-bố khắp nơi nhưng rất hiếm thấy chúng ngoài hải-đảo, đặc-biệt hoàn-toàn vắng mặt nơi các đảo nhỏ..

Động vật lưỡng cư là các loài sống được cả trên cạn và dưới nước. Lúc nhỏ, chúng giống như cá, thở bằng mang. Khi lớn, chúng sống trên cạn, thở bằng phổi. Cơ thể của động vật lưỡng cư hiện đại được phủ một lớp da nhẵn nhụi với nồng độ muối trong thể dịch và trong máu thấp hơn rất nhiều so với hàm lượng muối trong nước biển. Nếu động vật lưỡng cư xuống biển, do hàm lượng muối ở đây rất cao, cơ thể chúng sẽ bị rút một lượng lớn nước, gây sự chết chóc.

Hiện nay, đặc-biệt chỉ có một vài loài ếch biển, sống ở bãi bùn ven đảo Hải Nam và một số nước Đông Nam Á. Lớp da của chúng có lẽ đă tiến-hóa, không c̣n hiện-tượng “thẩm-thấu’ tác-dụng hay chăng? 

Nếu trên một số đảo c̣n năm ba các động vật lưỡng cư; ngườ́ ta có lý giải cho điều này như sau: Có lẽ do từ xa xưa, các đảo từng là một phần của đại lục. Sau này, chúng mới tách khỏi đất liền, thành đảo. Nói chung, giống loài của động vật lưỡng cư trên đảo, so với đất liền thì ít hơn nhiều.[198]

 

 

H́nh 125. Ếch nhái là loài lưỡng-cư

 

5.9 - H́nh-ảnh Điển-h́nh về Sinh-vật Hải-đảo: Cồn Cỏ

Trong mấy ngàn đảo Vịnh Bắc-Việt, đảo Cồn Cỏ có thể là đảo điển-h́nh về đời sống sinh-vật phong-phú.

Cồn Cỏ tuy nhỏ nhưng có tới 3 kiểu thảm thực-vật chính, đó là (1) rừng thường xanh đất thấp, (2) dạng thảm cỏ và (3) cây bụi rậm. Kiểu rừng thường xanh đất thấp đặc trưng bởi các loài Cồng Calophyllum inophyllum, Cḥ xanh Terminalia catappa và Lộc vừng Barringtonia asiatica. Tất cả có đến 118 loài thực-vật đă ghi nhận được trên đảo.[199] 

Điều rất đáng quư nữa là đảo tuy nhỏ nhưng vẫn có nguồn nước ngọt đủ nuôi sống con người. Thực-vật trên đảo khá phong phú, rậm rạp chiếm 3/4 diện-tích đảo. Rừng trên đảo có những loài cây lạ mà trong đất liền không có; có cây thân cao vằn vèo nhiều đốt; có cây thân thẳng, nhẵn như cây ổi, nhưng rất to cao, gỗ cứng và nặng, khi bị xây xát nhựa chảy ra đỏ như máu nên gọi là cây dầu máu. Lại có loài khoai dại, lá to hơn cả lá chuối, góp phần giúp người che nắng che mưa. Trên đảo c̣n có cả những rừng bàng, mùa thu, lá bàng đỏ ối cả một vùng. Các giống cây ăn trái được th́ có dâu da, chuối, đu đủ... Năm 1989, 4,000 cây dừa tượng-trưng cho 4,000 năm dựng nước và giữ nước được mang ra trồng trên đảo. Đến nay, dừa đă bắt đầu xanh tốt và cho quả.

Thế-giới động-vật trên đảo tuy không nhiều về chủng loại nhưng cũng khá độc đáo. Trên trời th́ có chim cu cờm, chim én. Dưới đất th́ có loài rắn lục xanh nhỏ nhưng rất độc, có thể dùng làm thuốc. Lại có loài cua đá to gần bằng bàn tay, đêm đến ḅ ra rào rào, là nguồn thực phẩm dồi dào và quan-trọng trên đảo.

Ngoài biển Cồn Cỏ có giống rắn biển, c̣n gọi là con đẻn, chỉ dài khoảng một sải tay nhưng độc không kém rắn lục. Rượu ngâm đẻn là loại thuốc chữa đau lưng, nhức mỏi, rất được nhiều người ưa chuộng. Biển c̣n loài hải-sâm đen, trắng, to bằng ngón chân cái, dài bằng gang tay, vừa là vị thuốc quư, vừa là món ăn ngon, được xếp ngang với yến sào. Một giống nhuyễn-thể khác nữa có rất nhiều ở bờ biển Cồn Cỏ là ốc nón, luộc ăn rất ngon, vỏ ốc có thể dùng làm đồ trang-sức, mỹ-nghệ..[200]

Kết quả của các lần điều-tra về hệ sinh-thái biển đă t́m thấy 52 loài tảo biển, 119 loài san-hô, 89 loài nhuyễn-thể, 10 loài động-vật da gai, 9 loài giáp xác và 267 loài cá biển, trong đó có 77 loài sống ở vùng san-hô (Nguyễn Chu Hồi et al. eds. 1998). Các rạn san-hô ở khu bảo-tồn biển Đảo Cồn Cỏ thuộc loại hiếm ở vùng biển vịnh Bắc-Việt, chúng chỉ có ở độ sâu hơn 10 m. Tại những độ sâu đó th́ các loài san-hô chiếm ưu-thế thuộc các giống Pocillopora và Millepora.[201]

Biển Cồn Cỏ có giống rắn biển, c̣n gọi là con đẻn, chỉ dài khoảng một sải tay nhưng độc không kém rắn lục, rượu ngâm đẻn là loài thuốc chữa đau lưng, nhức mỏi, rất được nhiều người ưa chuộng. Dưới biển c̣n hải-sâm đen, trắng, to bằng ngón chân cái, dài bằng gang tay, vừa là vị thuốc quư, vừa là món ăn cao cấp, được xếp ngang với yến sào. Một giống nhuyễn-thể khác nữa có rất nhiều ở bờ biển Cồn Cỏ là ốc nón, luộc ăn rất ngon, vỏ ốc có thể dùng làm đồ trang-sức, mỹ-nghệ.

Hiện nay, thế-giới động-vật trên đảo Cồn Cỏ không ngừng được bổ sung từ đất liền. Số trâu, ḅ, dê, lợn, gà... trên đảo cứ ngày một tăng. Điều này thực là nguồn vui cho lính đảo, nhưng thực-sự đang làm tan ră sinh-cảnh nguyên-thủy quư-hiếm của đảo.

 

5.10 - Sinh-cảnh Rạn san hô

Việt Nam có 350 loài san hô, trong đó có 95 loài ở vùng biển phía Bắc và 255 loài ở vùng biển phía Nam

Rạn san hô rất phong phú về sinh cảnh biển với số lượng các loài hải-vật đầy màu sắc. Những chức năng quan trọng của rạn san hô bao gồm nghề cá, bảo vệ vùng ven biển chống sói ṃn và du lịch biển. Ở Việt Nam, rạn san hô phân bố rải rác suốt cả khu vực. Có sự gia tăng đa dạng rơ rệt về cơ cấu sinh-hoạt và và loại h́nh hải-vật từ Bắc xuống Nam.

Mặc dù Vịnh Bắc-Việt nằm ở trong vùng nhiệt đới nhưng trong mùa đông, ḍng nước từ eo biển Quỳnh-Châu chảy vào đă làm giảm nhiệt độ mặt biển Vịnh Bắc-Việt xuống tới 160C. Nhiệt-độ thấp hạn chế sự phát triển của những hải-sinh-vật, đặc-biệt các cộng-đồng loài lưỡng tính. Hơn nữa, hoạt động kết hợp của nước mặn nổi trong mùa gió băo, giao động nhiệt độ lớn giữa các đợt nước triều, phù sa và bùn lầy lắng đọng ngăn-cản ánh-sáng mặt trời; tạo nên các tác động cản trở sự lớn mạnh của các rạn san hô trong vịnh.

H́nh 126. Sinh-vật đầy màu sắc của rạn san-hô

 

Tất cả các rạn san hô ở bắc Việt Nam đều là các rạn ŕa. Phần lớn các rạn này ngắn và hẹp hoặc dưới h́nh thức các đám san hô nhỏ bé rải rác bao quanh những đảo và ghềnh đá.

            Viện Hải-sản cho biết công việc khảo sát rong biển, động vật đáy, san hô và rạn san hô nước ta phần lớn c̣n sơ lược[202]. Chi-tiết về thành phần các loài, sự phân bổ, hiên-tượng sinh-thái học và cấu-trúc quần-xă sinh-vật sống ở rạn san hô... c̣n bỏ trống. Cá và nguồn lợi hải sản cũng chưa có số liệu xác-đáng. Đó là chưa nói các yếu tố về vật lư, địa lư địa mạo, hoá học biển chưa được nghiên cứu nhiều.

 

5.11 - Những loại Cá biển Việt-Nam

Có ít nhất là 2000 loài cá biển[203] sống trong hải-phận Việt-Nam. Thăm ḍ cho biết Cá Thu (Decapterus maruadsi) là loại cá hiện-diện nhiều nhất của biển nước ta. May mắn cá đó cũng là thứ cá thương mại, thịt ngon. Cá này dài 15.4cm nặng trung-b́nh 63g. Có nhièu con lớn hơn, nặng gấp 2,3 lần.

 

H́nh 127. Cá Thu là loại cá thấy nhiều nhất trong vùng biển Việt-Nam (Decapterus maruadsi)

 

Biển Đông được xếp vào loại các vùng biển có nhiều hải-sản vào hạng nh́, sau các vùng biển hạng nhất như Hoàng-hải, Baltic… Biển Đông bao quát một khu-vực quá rộng lớn, nhiều khu-vực quá sâu, xa bờ, ít thực-phẩm dinh-dưỡng cho các hải-sinh-vật. Tuy nằm trong vùng này nhưng hải-phận Việt-Nam lại là một khu-vực có mật-độ hải-sản khá cao. Đặc-biệt nhất là biển Nghệ-An ngoài khơi Diễn-Châu. Trong cuộc thăm-ḍ vào tháng 4 và tháng 5-1999, người ta ghi nhận có vị-trí mà mật-độ hải-sản vượt cao tới mức tối-đa bất ngờ là  113.0 tonnes/km2. Rất ít nơi nào trên thế-giới đạt mật-độ cao đến như vậy.

Nhờ mạng lưới điện-toán giúp việc phổ-biến tài-liệu,  người ta có thể truy-cứu dễ-dàng đặc-tính của mọi loài hải-sản. Chẳng hạn, qua mang lưới “http://www.fishbase.org” người ta t́m ra thật nhanh chi-tiết liên-hệ đến:

- 703 loài cá bước lợ (Marine/Brackish Fishes)

- 43 loài cá ăn ch́m

- 1016 loại cá Việt-Nam thông thường

- 2,710 loại cá Biển Đông

- 26,585 loại hải-sản với 121,410 tên thông-dụng địa-phương.

            Trong thời-gian trước 1975, Nha Ngư-Nghiệp thuộc bộ Canh-Nông của Việt-Nam Cộng-Ḥa đă lập một bảng danh-sách các hải-sản chính tại Biển Đông như sau:

-Cá ăn nổi: Cá Cơm, Cá Thu ống, Cá Bạc má, Cá Nhám, Cá Rựa, Cá Sọc mướp, Cá trích, Cá ngừ, Cá chuồn, Cá Nục, Cá Ṣng.

-Cá ăn ch́m: Cá chim, Cá Chét, Cá Gộc, Cá Mối, Cá Thiều, Cá Đổng, Cá Bàn xa, Cá Đỏ gịa, Cá Hố, Cá Đuối.

- Các hải-sản khác có thể mang lại những nguồn lợi lớn như tôm, cua, mực, bào ngư, vi cá, rong biển ...

            Trong vịnh Bắc-Việt, số cá ăn ch́m không nhiều v́ tầm nước nông cạn. Trong khi trung-b́nh độ sâu của vịnh chỉ vào khoảng 30m, cá ăn ch́m ưa-thích những vùng biển sâu hàng trăm thước nước. 

 

5.12 - Sinh-vật vùng Ngập Nước

            Trước đây, ít người lưu-tâm đến những vùng ngập nước, cho rằng khu-vực đó hoang vắng, lau lách đ́u-hiu, ếch nhái làm tổ… không có giá-trị. Thật ra về phương-diện sinh-học, vùng ngập nước giữ vai-tṛ quan-trong đến độ gần như quyết-định cả sự phát-triển hay sự tồn-tại môi-sinh của một quốc-gia . [204]

            Gần đây trong Kế-hoạch Bảo-tồn Môi-Sinh, định-nghĩa của “Vùng Ngập Nước” đă thay đổi. Theo đó, không những các khu lân cận băi biển như Trà Cổ, Ḥn Gay, các vùng cửa Sông Mă, Sông Cả, Sông Chu… mà hầu hết cả khu-vực Châu-thổ rộng lớn của Sông Hồng và Sông Thái-B́nh đều được xếp hạng vào “Vùng Ngập Nước”. Hiệp-hội Chim Chóc Quốc-Tế BirdLife International phân-loại tới 40 kiểu sinh-thái ngập nước ở Việt-Nam như như rừng tràm, đước, lau sậy, ao, hồ, vùng cửa sông, các trảng cỏ ngập nước theo mùa. đầm lầy, rừng ngập mặn, băi bồi và các ao nuôi thuỷ sản…   

Vùng ngập nước bao trùm gần 1/5 nước ta lại cũng là những vùng đông dân và kỹ-nghệ phát-triển. BirdLife International lưu-ư rằng những vùng ngập nước của Việt-Nam chính là khu-vực sinh-thái đang bị đe-dọa nhiều nhất cho sự tồn-tại của nhiều loài sinh-vật. Hiệp-hội này phổ-biến một danh-sách chim-chóc có cơ nguy bị tuyệt-chủng khắp thế-giới là 33 loài. Trong đó 15 loài đang nhờ những khu ngập nước của Việt-Nam mà cố gắng sinh-tồn. Đứng đầu sổ “Tử-thần” là C̣ Quắm Vai Trắng cánh xanh White-shouldered Ibis Pseudibis davisoni, C̣ Mỏ Th́a Mặt Đen Black-faced Spoonbill Platalea minor, Già đẫy nhỏ Lesser Adjutant Leptoptilos javanicus and C̣ “ô tác” Bengal Florican Houbaropsis bengalensis (BirdLife International 2000).

 

H́nh 128. Sinh cảnh những vùng ngập nước quanh Vịnh Bắc-Việt rất phong-phú

 

5.13 - Sự Sống khởi-sự từ Vùng ngập Nước ngọt

Ngay từ thời “khai-thiên lập-địa”, vùng ngập nước đă từng giữ vai tṛ quan-trọng trong việc khai-sinh đời sống trên địa cầu. Nói chi-tiết hơn, các tế-bào sinh-vật đầu tiên xuất-hiện trước hết trong những vùng ngập nước ngọt như ao, hồ, đầm lầy tương-tự như chúng ta thấy tại châu-thổ Bắc-Việt ngày nay. Khám-phá này c̣n rất mới, xin mời Quư-Vị xem qua bài báo ngắn ngủi dưới đây:

Nhóm nghiên cứu của Charles Apel, Đại học California ở Santa Cruz (Mỹ), đã thành công trong việc tạo ra các dịch thể hình cầu trong môi trường nước ngọt. Tuy nhiên, khi chuyển qua nước mặn, các dịch thể liền bị phá hủy. Rõ ràng, môi trường nước mặn không thích hợp cho cấu trúc sống này.

Bình luận về phát hiện của nhóm Charles Apel, nhà địa chất học Paul Knauth thuộc Trường Đại học Arizona nói rằng: "Cách đây trên 1 tỷ năm, nước biển còn mặn gấp đôi hiện nay, vì thế việc hình thành sự sống là rất khó khăn". Nhà sinh học Robert Hazen, Viện Carnergie ở Washington thì nói: "Lâu nay chúng ta đều tin rằng cuộc sống hình thành ở đại dương, nhưng xem ra, nó đã bắt đầu ở một cái ao nào đó"[205].

 

5.14 - Các Đơn vị Địa-Sinh-Học

Ngoài đơn-vị sinh-học đặc-biệt biển là Vịnh Bắc-Việt, người ta có thể dễ dàng chia lục-địa Việt Nam thành một số các đơn vị địa sinh học đất liền trên cơ sở sự khác nhau về tổ hợp những loài và các giới hạn phân bố những loài chỉ thị.

Bắc Việt Nam (được biết về sinh học là Bắc bộ) cho thấy một vài khu vực ở những mức độ khác nhau được phân chia bởi các con sông lớn (sông Đà, sông Mă, sông Cả, v.v...). Sự phân bố các loài thú linh trưởng và một số loài chim đặc hữu cho thấy tầm quan trọng của những con sông này làm ranh giới cho các loài động vật.

Cuối cùng là dăy Hoàng Liên Sơn với những ngọn núi cao ở Tây Bắc đất nước cũng là một đơn vị đặc thù nối với dăy núi Hengduan của Trung Quốc, phía đông dải Hymalaya . Những dăy núi này cao hơn dăy nũi nối ở lănh thổ Việt Nam rất nhiều và cho ta thấy một hệ động thực vật hoàn toàn khác biệt.

 

H́nh 129. Trung-tâm Đa-dạng Sinh-học ngăn bởi các sông lớn và dăy núi cao: I-Tả ngạn Sông Hồng. II-Giữa Sông Hồng và Sông Đà. IV- Hữu-Ngạn Sông Đà., SôngMă. V- Trường-Sơn

 

5.15 - Hệ-thống Môi-sinh và Cá Nước Ngọt Việt-Nam

Nước mặn ở ngoài biển, nước ngọt ở trong đất liền. Về sinh-học nước ngọt, khu-vực quanh Vịnh Bắc-Việt được đề-nghị phân-chia thành các vùng địa-lư như trong bản-đồ đính kèm.

            Các sinh cảnh nước ngọt cũng được xếp vào một số những đơn vị địa sinh học đặc thù (Mai Đ́nh Yên, 1985, 88, 91). Có hai tiểu vùng chính của vùng Viễn đông gọi là tiểu vùng Nam Trung Quốc bao gồm tất cả các hệ sông ở Bắc Việt Nam về phía Nam tính đến Huế.

 

H́nh 130. Các sinh-vật dưới nước chia theo hệ-thống nước ngọt, Bắc Việt-Nam có thể chia ra 5 vùng địa-lư.

 

Cá nước ngọt Miền Bắc Việt-Nam đă được thống-kê hầu hết. Một số sách về loại này đă được xuất-bản trước đây. Tài-liệu cập-nhật-hóa tiêu-biểu về các giống cá Bắc-Việt-Nam được t́m thấy trong cuốn sách nhan-đề “Freshwater Fishes Of Northern VietNam” do Maurice Kottelat, xuất-bản năm 2001.

Sách này mô-tả đặc-tính của 268 loại cá t́m thấy tại Bắc-Việt cho đến Sông Cả. V́ sinh-cảnh khu-vực này thuộc tiểu vùng Nam Trung-Hoa nên tác-giả cũng so-sánh những khác-biệt giữa cá Việt-Nam với đồng-loại của chúng ở Vân-Nam, Quảng-Tây, Quảng-Đông và Hải-Nam. Ngoài ra, Kottelat đă nỗ-lực quốc-tế-hoá sự định-danh theo “International Code of Zoological Nomenclature”. Văn-pḥng Environment and Social Development Unit trách-nhiệm phân-phối (East Asia and Pacific Region, World Bank, 1818 H St NW, Washington DC 20433, USA. E-mail: twhitten@worldbank.org).

Một tài-liệu nữa hơi cũ của Kuronuma, K.1961.A Checklist of the fishes of Vietnam. Division Of Agricultural and Natural Resources: U.S.O.M.: pp.15.

Những tác-giả Việt-nam như Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Nhật Thi. 1994. Checklist of marine fishes in Vietnam. Vol. 2. Osteichthyes, from Elopiformes to Mugiliformes.Science and Technics Publishing House, Vietnam.

Bà Nguyễn-Thị-Nga và một số Khoa-học-gia khác cũng viết một số tài-liệu liên-hệ đến hải-sản Việt-Nam.

 

5.16 - Những loài Cá biển và những loài không phải Cá

            Một số lớn các thủy-tộc thông-thường mà ta thấy ở bờ biển Việt-Nam là cá thu, cá nhám, cá hồng, cá mú, lươn bể, cá đuối, cá mực, đồn đột, tôm cua, ṣ ốc...

            Biển Đông có nhiều loại cá đáng kể là những mối lợi lớn về kinh-tế. Chúng tôi xin tŕnh bày về các loài cá của ngư-nghiệp trong phần tài-nguyên-hải-sản, ở đây chúng tôi xin nói vài điều về những hải-sinh-vật lớn như cá voi, cá heo.

- Chúng ta thường hay gọi cá voi, cá ḱnh, cá heo nhưng trong sinh-vật-học, chúng không phải loài "Cá" mà được xếp hạng cùng với con người trong loài "hữu-nhũ" (có vú - Mammalia) máu nóng, thở bằng phổi, đẻ con nhỏ (không đẻ ra trứng.) Cá voi thực-sự (true whale) không có răng cứng mà chỉ có những màng lưới bằng sụn mềm xếp kín như cái lược. Chúng sống bằng các phiêu-sinh-vật (plankton) là những sinh-vật nhỏ li-ti sống trôi nổi trong nước.

- Viện Nghiên-cứu Đông-Tây tại Hawai cho biết ở Đông-Nam-Á có tới 11 loài cá voi được xếp thứ-tự nh́n thấy sinh-sống nhiều ít như sau: Bryde's whale, Sperm whale, Sei whale, Fin whale, Blue whale, Minke whale, Goosebeaked whale, Humpback whale, Beaked whale, Black right whale, Pygmy sperm whale.

- Những loài cá voi lớn nhất ít khi xuất-hiện trong Vịnh Bắc-Việt v́ tầm nước không được sâu lắm. 

- Người Việt lúc xưa cũng săn cá voi như mọi giống dân Á-Đông khác. Dân duyên-hải nước ta chỉ mới thờ cá voi cách nay không lâu khi Nam-tiến, tiếp-xúc nhiều với người Chiêm-Thành. Đền thờ cá voi bắt đầu thấy xuất-hiện từ Quảng-Trị xuôi về các tỉnh miền Nam.

 

H́nh 131. Các loại cá voi

           

-          Ngoài cá voi, Biển Đông cũng là nơi sinh sống của loại cá heo (Delphinadae). Trong sinh-vật-học, người ta cho rằng cá voi và cá heo có nhiều điểm tương-tự; trừ ra cá heo có hàm răng, chúng sinh sống bằng các loại cá nhỏ và cá mực.

-           

H́nh 132. Một bức tranh nghệ-thuât về cá heo

 

Cá heo vùng biển nước ta có vài điểm hơi khác biệt nên thường được gọi là cá heo South China Sea hay Malacca Dolphin. Chúng đi từng bày, thân dài trong khoảng từ 1.5m tới 2m, bơi rất nhanh và thích đùa dỡn khi chạy qua chạy lại trước mũi tàu những khi đẹp trời.

            Tin-tức từ Việt-Nam cho biết xác cá heo đôi khi thấy nằm chết ở bờ biển Vịnh Bắc-Việt. Có nhiều con chết v́ mắc lưới khi chúng đuổi săn mồi.

 

5.17 - Thực-vật Phong-phú trên Quê-hương ta

Vịnh Bắc-Việt lúc xưa có giai-đoạn là những cánh rừng nhiệt-đới xanh tươi. Gần như toàn-thể lănh-thổ và hải-phận nước ta khi trước lúc biển cạn cũng từng được bao-phủ bởi mọi loại rừng cây cối trùng-điệp. Đó là món quà thiên-nhiên miễn-phí, c̣n công-tŕnh nhân-tạo vườn cỏ, chậu hoa… và bóng mát thành-phố cần chi-tiêu nhiều công-sức và tiền-bạc.

Thực-vật Hà-Nội là một điển-h́nh, Theo Công ty Công viên Cây xanh, mỗi mùa xuân từ tháng 1 đến hết tháng 4, nhiều công-tác được thực-hiện. Năm 2002 sẽ có 6.000 cây được trồng tại các phường, khu tập thể, trường học của quận Thanh Xuân, Cầu Giấy. Các tuyến phố của quận Hai Bà Trưng, Ba Đình cũng được bổ sung nhiều cây bằng lăng, sữa, sấu.

Thành phố hiện có 200.000 cây, thuộc 150 loài, tập trung chủ yếu ở Hoàn Kiếm, Ba Đình. Năm 2001, tỷ lệ cây xanh Hà Nội là 4,1 m2/người. Các kỹ sư cho biết, quỹ đất Hà Nội dành cho vỉa hè rất hạn hẹp nên việc tăng diện tích phủ xanh tương đối khó khăn. Với những con đường như Nguyễn Lương Bằng, Tôn Đức Thắng, Tây Sơn, Cầu Giấy... phương án duy nhất là trồng cây ở dải phân cách. Tuy nhiên, để đảm bảo không khuất tầm nhìn của người đi lại, cây trồng ở đây chỉ có thể là hoa, thảm cỏ. Những loại này lại không cho bóng mát, chỉ có tác dụng làm mềm dải phân cách. Một số loại cây trồng đă được chọn lựa.

 

5.18 - Một Thế-giới Động-vật Phong-phú

Chúng tôi chọn mấy đoạn sau của Giáo-Sư Trang 92-93 Lê Bá Thảo phát-biểu về một thế-giới đông-vật phong-phú Việt-Nam như  sau:

So với giới thực-vật, giới động-vật ở Việt Nam- mặc dù đă có nhiều công-tŕnh nghiên-cứu từ lâu - nhưng không phải là đă phát hiện được hết, ở trên rừng cũng như ở dưới biển. Bằng cớ là đến năm 1992, c̣n phát hiện được ở rừng Vũ Quang (Hà Tĩnh ) một loài thú móng guốc lớn mới- một loài dê rừng sừng dài ( Ox Pseudoryx Nghetinhensis)- đồng thời cũng là một giống (Chi) mới trong khoa-học .

 

H́nh 133. Vịnh Bắc-Việt lúc xưa có giai-đoạn là những cánh Rừng Nhiệt-đới

 

Đặc điểm của giới động-vật ở Việt Nam là tính nhiệt-đới của nó, biểu hiện ở chỗ số lượng loài th́ rất nhiều và song xen kẽ, nhưng số lượng cá thể th́ ít. Các loài đặc trưng cho hệ động-vật cổ nhiệt-đới đều thấy có ở Việt Nam như cheo ( Fragulus), đồi (Tupaia), chồn bay (cynocephalus), cầy mực (Arctistis),Cu li (Nycticebua),vượn (Hylobates), tê tê (Manis pentadactyla), voi (Elephas maximus), heo ṿi (Tapirus indicus) và tê giác (Dicerorhinus sumatrensis và Rhinoceros sondaicus)

Rừng rậm nhiệt-đới ẩm xanh quanh năm và rừng rậm nhiệt đới mưa mùa có giới động-vật phong-phú nhất. Tuy nhiên chính rừng thưa và xavan cây bụi mới là nơi cư trú của nhiều loài thú móng guốc có giá trị như tê giác và voi, hươu nai (Cervidae), ḅ rừng (Bos javanicus), ḅ tót (Bos Gaurus), ḅ xám (Bos sauveli), trâu rừng (Bubalus bubalis), sơn dương (Capricornis sumatraensis), Hoẵng Nam Bộ (Muntiacus muntjak annamensis). Sự có mặt của các loài thú ăn cỏ này kéo theo các loài thú dữ ăn thịt thuộc họ mèo (Felidae) như báo lửa (Felis temmincki),báo gấm (Neofelis nebulosa), báo hoa mai (Panthera pardus), hổ (Panthera tigris) v.v..Các loài gậm nhấm cũng đông đảo như các loài chim.

Ở các kiểu rừng á nhiệt-đới và rừng ôn đới núi cao,số loài nhiệt-đới giảm đi .Xuất hiện một loài nguồn gốc á nhiệt-đới thí-dụ các loài gấu (Ursidae) bao gồm cả gấu chó (Helarctos malayanus) và gấu ngựa (Selenarct thibetanus).

 

H́nh 134. Tem vẽ h́nh Sao La

 

 

5.19 - Những con số thống-kê có thể nhỏ dần

Thật khó ḷng mà liệt kê hết ở đây 275 loài thú có vú ở Việt Nam (chiếm 6,8% các loài thú như vậy của thế-giới ), 800 loài chim (chiếm 8,8%), 180 loài ḅ sát (chiếm 2,9%), 80 loài lưỡng thê (chiếm 2,0%), 2400 loài cá (13%) và hơn 5500 loài sâu bọ (danh mục các loài sâu bọ thực ra chưa đầy đủ v́ chỉ có một vài họ là đă được nghiên-cứu chi tiết[206]). Thực-vật bậc cao hiện đă phát hiện được là 7000 loài (chiếm 3,2% của thế-giới),khoảng 800 loài rêu, 600 loài nấm. Theo dự đoán, số loài thực-vật phải lên đến 12000 loài, trong đó khoảng 2300 loài đă được sử-dụng làm thực phẩm, thuốc chữa bệnh, tinh dầu và nhiều nguyên liệu khác.[207]

            Những con số lớn được thống-kê ở trên sẽ có thể nhỏ dần v́ môi-sinh thay đổi. Ngày nay phần lớn diện-tích rừng đều đă biến thành các cảnh-quan nhân-loại-hóa. Ở đồng-bằng, rừng đă bị triệt phá để trở thành đồng ruộng, ở trung du, chúng biến thành các nương chè, đồn điền cây công-nghiệp các loại, ở miền núi, diện-tích của chúng ngày càng thu hẹp dần do hoạt-động “nương rẫy” và khai-thác gỗ củi. Rừng nước mặn được triệt hạ để làm các đầm nuôi tôm.

Tất nhiên không thể nói rằng các hoạt-động vừa nêu là xấu cả, trái lại chúng là cần-thiết cho sự sống của con người. Chúng chỉ xấu khi vượt qua một ngưỡng nhất định, tất tiếc là trong t́nh h́nh hiện nay, phần lớn các hoạt-động này đă vượt qua ngưỡng sinh-thái đó.

Hậu quả là trong số 331,700 km2 nguyên được che phủ bởi rừng nguyên thủy, hiện chỉ c̣n lại khoảng 66,423 km2, trong đó có 7365 km2 rừng bảo-vệ[208] (LBThảo tr92-93-94)

            Cuốn “Sách Đỏ”[209] đă nêu ra 365 loài động-vật bị đe-dọa trong đó 67 loài ở mức-độ nguy-cấp

 

H́nh 135. Tem thơ có h́nh các loài Chim quư Việt-Nam 

 

H́nh 136. Cá đao Swordfish Xiphias gladius

 

5.20 - Sinh-Vật Đặc-hữu quanh Vịnh Bắc-Việt          

H́nh-ảnh kèm theo đây lấy ra từ một cuốn sách Vạn-vật, mô tả một “gia-đ́nh” cào cào -locus- loại đặc-hữu “Bắc-Kỳ” với h́nh con đực, con cái, con nhỏ, trứng và ấu-trùng (Hieroglyphus tonkinensis: a: female adult; b: male adult; c: egg; d: egg-capsule; e: nymph). Cào cào loại này sống trên những cây tre bương, luồng, giang, nứa… ở miền Bắc Việt-Nam. Nếu rừng tre hết lá, chúng bay ra ăn cả mía, lúa và ngốn luôn cả các thứ nông-sản khác.

 

 

H́nh 137. H́nh cào cào - Hieroglyphus tonkinensis.

 

Sinh-vật đặc hữu, thực-vật và động-vật như cào-cào kể trên rất nhiều, và hiện nay bảng thống-kê đang được kéo dài thêm.. Chúng tôi xin đưa ra một số danh-từ khoa-học hơi cổ từ thời Pháp-thuộc mang danh Bắc-kỳ (tonkinensis) như sau: Acacia-Tonkinensis, Amorphophallus-Tonkinensis, Antheraea frithi-Tonkinensis, Aptychella-Tonkinensis, Archangiopteris-Tonkinensis, Bonia-Tonkinensis, Carya-Tonkinensis, Caryodaphnopsis-Tonkinensis, Chryschroa-Tonkinensis, Costus-Tonkinensis, Cryptocoryne-Tonkinensis, Chryschroa-Tonkinensis, Dipterocarpus-Tonkinensis, Epicycas-Tonkinensis, Eulichas-Tonkinensis, Exbucklandia-Tonkinensis, Hieroglyphus-Tonkinensis, Licuala tonkinensis, Liphistius-Tonkinensis, Pandanus tonkinensis, Pitambara-Tonkinensis, Rhizopus-Tonkinensis (Filamentous Fungi), Uvaria-Tonkinensis, Zamia-Tonkinensis.

Những khu-vực nhỏ như Hạ-Long cũng cưu-mang những loài đặc-hữu mang tên khoa-học halongensia. Trên các đảo vịnh này, những  loài động vật thân mềm rất đa dạng với 60 loài đặc hữu. Đặc biệt mới khám-phá là các loài cư trú trong các hốc đá tại đây có tính đa dạng rất cao.[210]

Thí-dụ vài tên halongensis: Livistona halongensis, Impatiens halongensis, Chirita halongensis, Paraboea halongensis, jasminum halongensis…[211].

 

 

H́nh 138. Zamia-tonkinensis

 

5.21 - Quảng Ninh là Vùng Đất Đa-dạng Sinh-học

Chứng tôi trọn một tỉnh duyên-hải làm tiêu-biểu cho sinh-cảnh của vùng biển quanh Vịnh Bắc-Việt: tỉnh Quảng Ninh. Đây là vùng đất đa-dạng về địa-h́nh, khí hậu thổ nhưỡng nên hệ sinh-thái cũng phát-triển đa-dạng và phong-phú về chủng loại.

Về động vật,:trước hết là gia súc có trâu, ḅ, lợn, dê, gà, chó, mèo, thỏ, ngan, ngỗng, vịt... Chăn nuôi đại gia súc khá phát-triển ở miền núi. Đáng chú ư là Quảng Ninh có giống lợn Móng Cái nổi tiếng v́ dễ nuôi, chóng lớn, nạc nhiều, sinh sản tốt. Các huyện miền Đông c̣n nuôi nhiều ngan lai vịt, tiếng địa phương gọi là "cà sáy" thịt ngon, chóng lớn.

Quảng Ninh cũng là nơi nhập nhiều giống ngoại: trâu Mu-ra ấn Độ, ḅ Sinơ Ấn Độ, ḅ sữa Hà Lan, ngựa, cừu, dê Mông Cổ. Tuy nhiên có một số giống không thích nghi được chỉ phát-triển một thời. Nay trong gia súc có thêm hươu sao. Động-vật hoang dă xưa có nhiều. Xa xưa có cả voi, tê giác, gần đây có hổ báo, gấu, chim công, chim yến, bồ nông... Nay đáng chú ư là có khỉ vàng, nai, hoẵng, chim trĩ, đại bàng, lợn rừng, nhiều loại chim di cư (như sâm cầm, chim xanh), và tắc kè, tê tê, rùa gai, rùa vàng... nhưng số lượng giảm nhiều.

Động-vật thủy sinh ở Quảng Ninh rất phong-phú, ở vùng nước ngọt, ngoài các loài cá, tôm, cua, ốc vùng Đông Triều c̣n có con rươi, con ruốc nổi theo mùa.

            Có khoảng 8000 loài thực-vật bậc cao, 800 loài rêu, 600 loài nấm 275 loài thú, 820 loài chim, 180 loài ḅ sát, 471 loài cá nước ngọt và hơn 2000 loài cá biển sống trên lănh thổ Việt Nam.

Việt Nam có 3260 km bờ biển với vùng lănh thổ rộng tới 326,000 km2, diện-tích có khả-năng nuôi trồng thủy-sản là 2 triệu ha trong đó 1 triệu ha nước ngọt, 0,62 triệu ha nước lợ và 0,38 triệu ha nước mặn. Phần lớn diện-tích này đă được đưa vào sử-dụng để khai-thác hoặc nuôi trồng thủy-sản

 

5.22 – Sinh-Vật Dăy Trường Sơn

Chỉ mới trong ṿng 15 năm lại đây th́ sự độc đáo thực sự của đa dạng sinh-học trong dăy Trường Sơn mới bắt đầu được công nhận. Xúc tác chính cho sự công nhận này là sự phát hiện ra một số các loài thú lớn trong đó có sự phát hiện ra loài Sao La đầy thuyết phục. Tuy nhiên, vùng sinh thái này không chỉ có tầm quan trọng bảo tồn toàn cầu v́ các loài độc đáo của nó - mà c̣n v́ nó là nơi sinh sống của rất nhiều các thành phần sinh-học đang bị đe doạ khác như Tê giác một sừng. Hiện nay trên thế giới chỉ c̣n lại hai quần thể loài Tê giác một sừng mà trong đó có một quần thể nằm ở dẫy Trường Sơn.

Đứng giữa điểm gặp gỡ của hai khu vực sinh-học địa-lư lớn, vùng ôn hoà phía bắc và vùng nhiệt đới phía nam, vùng sinh thái này kết hợp được các yếu tố động thực vật của cả hai khu vực. Vùng sinh thái này cũng có tính đa dạng cao về các vùng sinh cảnh, từ các vùng rừng núi đá vôi có đặc trưng rơ rệt đến các vùng rừng khô ven biển của khu vực phía Nam, cho đến các vùng rừng ẩm gió mùa trên dỉnh dăy Trường Sơn.

Tính đa dạng về các sinh cảnh hiếm đi đôi với tính đa dạng đặc biệt về thực vật. ở Khu bảo tồn Pù Mát, Việt Nam có 1,144 loài thực vật có mạch. Khu vực này mới chỉ là một phần nhỏ của dăy Trường Sơn. Vườn quốc gia Cúc Phương - một vùng núi đá vôi có 1.799 loài thực vật có mạch. Số lượng các loài thực vật đặc hữu là rất cao. Có một loài thực vật nổi tiếng, Sâm Việt Nam (Panax Vietnamensis) là một loại rất hiếm v́ nó có giá trị kinh-tế. Các loài thực vật làm cây cảnh như phong lan và cây thuốc có giá rất cao trên thị trường trong nước và quốc tế. Và kết quả là nhiều loài như vậy đang ngày càng trở nên hiếm.

 

H́nh 139. Chim Công

 

H́nh 140. Trâu Rừng, loài này được dân ta thuần-hóa thành trâu cày từ nhiều ngàn năm trước

 

5.22 - Nhiệt-độ và Thủy-Sinh-Vật

Những loài cá sống ở vùng cửa sông có khả-năng thích-nghi với những biến đổi lớn của nhiệt độ. Những loài cá đó vẫn sinh-tồn với những dao động của nhiệt độ tốt hơn là cá ở đại dương, nhưng không bằng các loài cá ở nước ngọt. Nhiều loài cá không chịu đựng nổi nhiệt độ nước cao hơn 32oC (nhiệt độ này xuất hiện trong những ngày hè nóng bức ở vùng vĩ độ thấp). Thậm chí sự nóng lên chút ít do nước thải công nghiệp hay nước làm lạnh ḷ phản ứng hạt nhân cũng có thể làm cho chúng chết.

Kích thước của tôm hùm (Humarus) phụ-thuộc vào nhiệt độ nước nuôi chúng. Những kết quả thực nghiệm tiến hành ở Mỹ và Canada chỉ ra rằng sự tǎng nhiệt độ nước, tôm hùm phát triển nhanh hơn. Thí dụ, ở nhiệt độ 13oC, bốn giai đoạn ấu trùng thường hoàn thành trong ṿng 30 ngày, ở nhiệt độ 17oC- trong 20 ngày và ở 21C -trong 10 ngày. Ngoài ra, ở nhiệt độ cao hơn, các ấu trùng dễ sống hơn. ở nhiệt độ cao người ta quan sát thấy sự phát triển trong giai đoạn ấu thể hay giai đoạn gần trưởng thành nhanh hơn. Song với những kết luận cuối cùng về nhiệt độ thích hợp nhất đối với tốc độ phát triển của tôm hùm c̣n chưa khẳng định được.

 

5.23 - Các chuyện Lư-thú về Sinh-vật

            Những chuyện lư-thú sau đây liên-hệ nhiều ít đến các loài chim, cá và những loài sinh-vật khác quanh miền Bắc và Vịnh Bắc Việt-Nam

Cá ngủ. Giống như các loài động vật khác, cá cũng cần phải ngủ, nhưng lại không hề nhắm mắt, đa số chúng chỉ chợp mắt chốc lát mà thôi. Chính vì vậy chúng ta có cảm giác rằng cá không bao giờ ngủ. Ở Địa trung Hải có nhiều loài cá vùi mình trong cát khi ngủ. Đáng nể nhất là loài cá vẹt, ban đêm tiết chất nhầy thành cái túi ngủ để che mắt kẻ thù. Nó phải mất 30 phút để tạo ra cái túi ngủ này và ngần ấy thời gian để ra khỏi “giường”.

Các loài cá trích, bạc má hay cá chày ngủ thành từng đàn có lính canh dưới đáy biển. Nhiều loài ngủ trong đám rong rêu phía trên mặt nước, số khác lại nằm im trên cát nhờ tài hoá trang lẫn vào môi trường xung quanh như cá đuối. Còn loài cá sòng ngủ giữa những hòn cuội nhỏ. (Theo Tuổi Trẻ, 24/3).

Cá Ông Trong khi cá voi lưng gù thường bị các tàu đánh cá Na Uy, Nhật Bản… đánh bắt ráo riết khiến chúng ở trong t́nh trạng suy giảm trầm trọng, th́ các ngư dân Việt Nam ngược lại không có thói quen bắt loại cá này và thường tỏ ra kính trọng, gọi chúng là cá Ông. Khi gặp cá chết, cả làng nghề thường họp nhau làm lễ mai táng.

Con Lười Tí-hon có Mắt lớn. Nói chung, các động-vật dưới biển có cặp mắt lớn hơn những động-vật sống trên cạn. Tuy vậy, mắt của loài khỉ tí-hon Cu-li (tarsier hay loris) cũng được kể là rất lớn, hoạt-động rất tinh trong đêm tối như cặp ống nḥm. Nếu loài người muốn con mắt cỡ tương-đương th́ cặp mắt chúng ta phải lớn như hai trái bưởi.

Khỉ Cu-li thường được gọi lá Con Lười nhỏ, sống tại rừng Borneo, Philippines và Việt-Nam. Chúng lại là loài linh-trưởng độc-nhất có thể quay đầu đủ 180 độ về mỗi phía.[212] Cu-li là loài khỉ nhỏ nhất không đuôi, chỉ nặng khoảng 1kg, toàn-thân dài 25cm. Sở dĩ Cu-Li mang tên Con Lười (Paresseur) v́ nó thường-thường di-chuyển rất chậm chạp trên cành lá rậm rạp đến độ con mồi không để-ư. Khi đúng trong tầm, Lười ra tay rất lẹ để chộp con mồi. Nhờ hai chân bám cây rất vững, Lười có thể dùng cả hai “tay” khi cần-thiết.

Cả chân và tay con Lười có thể rất nhanh, “ra tay” chính-xác nhưng khả-năng di-chuyển nhanh, truyền cành như “bà con gần” của nó là loài Vượn đà bị mất đi hoàn-toàn.

 

 

H́nh 141. Culi lùn Nycticebus pygmaeus

 

Động-vật có đôi Mắt lớn nhất. Nếu cuộc tranh tài chỉ giới hạn trong những sinh vật đang sống, thì mực khổng lồ (Architeuthis) sẽ đoạt ngôi vô địch dễ dàng mà không có đối thủ. Con mắt với đường kính 25 cm của nó to bằng cả đầu người, rộng 10 lần kích cỡ mắt của chúng ta.

Trong bảng so sánh bên, người và cá heo đứng trên cùng, với đôi mắt nhỏ xíu. Đứng gần chót danh sách là mực khổng lồ với con mắt rộng bằng một chiếc đĩa lớn. Người và mực có cấu trúc mắt khá tương đồng. Cả hai đều có thủy tinh thể, đồng tử, mống mắt và võng mạc đơn, mặc dù mực tiến hóa dưới nước và người ở trên cạn.

Nhưng nếu so sánh với các bậc tiền bối, thì mực khổng lồ vẫn chỉ là hạng hai. Nhà vô địch của mọi thời đại phải kể đến con Temnodontosaurs platyodon, đứng cuối bảng tổng sắp. Đường kính mắt của nó lên tới 26,4 cm. Đây là một loài bò sát biển đã tuyệt chủng, với bề ngoài trông giống như cá. Chúng từng ngang dọc trên các đại dương trong thời kỳ Đại Trung Sinh - không lâu trước khi khủng long đặt lên chân lên đất liền - 250 triệu năm trước

 

 

H́nh 142. Từ trên xuống, kích cỡ mắt tăng dần.

 

Khi chim Én bay thấp thì Trời mưa. Khi ta thấy chim én bay thành đàn sà thấp xuống mặt đất để bắt côn trùng thì thường sau đó, trời sẽ mưa.

Nguyên nhân là trước lúc trở trời, trong không khí có nhiều hơi nước, đọng vào những bộ cánh mỏng của côn trùng, làm tăng trọng-lượng, khiến chúng chỉ có thể bay là là sát mặt đất. Trong số các côn trùng c̣n có các loài mối, muỗi nhỏ mà chúng ta khó nhìn thấy. Khi gặp lúc khí-áp thấp, không-khí ngột ngạt, nên nhiều loài sâu bọ cũng chui lên khỏi mặt đất. Chim én bay xuống thấp chính là để bắt những côn trùng và sâu bọ này.

Cho nên, cứ mỗi khi thấy chim én bay thành đàn sà xuống, người ta lại nói rằng trời sắp có mưa.

Chim Cắt Vô-địch Nh́n xa và Bay nhanh. Kích-thước cặp mắt của loài chim không đủ lớn và không có trong bảng so sánh ở trên, nhưng thị-lực nh́n xa của chúng đứng hàng vô-địch

Đứng đầu là loài chim cắt, với khả-năng nhận ra một con chim bồ câu từ một khoảng cách xa tới 5 dậm Anh. Chim cắt không những nh́n xa thấy rơ mà c̣n bay rất nhanh. Vận-tốc b́nh-phi của loài chim dữ này ít nhất cũng vượt 124 đặm một giờ. Khi nhào xuống bắt mồi giữa không-trung, chim cắt dễ dàng đạt tới 168 dặm một giờ. Với vận-tốc này, Chim Cắt (peregrine falcon - Falco peregrinus) đúng là sinh-vật nhanh nhất trên địa-cầu hiện này.[213]

 

 

H́nh 143. Thạch-Sanh bắn đại-bàng cứu công-chúa

 

Đại-bàng Tí-hon. Truyện thần-thoại Việt-Nam đầy dẫy những con đại-bàng khổng-lồ gây nỗi kinh-hoàng cho loài người. Chim che cả ánh mặt trời khi bay, cả một vùng rộng lớn bị tăm tối như ban đêm. Chim đại-bàng to-lớn đứng đầu bốn thú-vật khổng-lồ. Câu “Nhất Điểu, Nh́ Ngư, Tam Xà, Tứ Tượng” có nghiă: lớn nhất là chim (Đại-bàng), thứ nh́ là cá (cá Voi, cá Ông), thứ ba là rắn (trăn, Măng-xà), thứ tư là Voi.

Tuy vậy, xứ ta lại có một vài loài chim thuộc họ đại-bàng (falcon) mà thân lại nhỏ síu. Đó là chim cắt chân đen (black-legged falconet - Micrphierax fringlius) với trọng-lượng toàn-thân 1.25 ounces, tức không hơn một trái trứng vịt. Chim này thường chỉ dài chừng 5,5 inches, kể cả 2 inches cho lông đuôi. Ít con nào lớn tới 6 inches (12.6 cm)[214]. Chúng được xếp vào một trong những loài chim dữ ăn thịt sống nhỏ nhất trên thế-giới.

Không / Hải-hành Viễn-dương Chính-xác.  Với những phương-tiện tối-tân điện-tử, không / hải-hành viễn-dương ngày nay thật là chính-xác. Không phải như vậy mà tất cả loài người chúng ta đă có thể tài-giỏi như các loài di-điểu. Chẳng có dụng-cụ cồng-kềnh như vệ-tinh, computer, la-bàn, sách vở tra-cứu…; những chim này được trời phú cho khả-năng bay xa hàng chục ngh́n hải-lư, không lạc lối.

            Một cách giản-dị nhất, các nhà khoa-học chia ra 3 loại “la-bàn” mà óc di-điểu ghi nhớ được nhờ di-truyền. Phương-cách sử-dụng như sau:

- Đường di-chuyển của mặt trời  để định hướng Đông-Tây - Hải-hành ngày

- Đường di-chuyển của thiên-thể để định hướng chung - Hải-hành đêm

- Từ-tính: chim có một cơ-phận tí-hon phía trên mũi, đặc-tính như nam-châm. Giống như được thiết-kế sẵn la-bàn-từ, chim biết rơ hướng Bắc-Nam của từ-trường trái đất.

            Có lẽ c̣n cần nhiều nghiên-cứu, người ta mới hiểu được hết bản-năng không hải-hành của di-điểu. Có nhiều đ́ều xem ra rất thích-thú cho những ai ưa thắc mắc về kỹ-thuật hàng-hải như sau:

- Khi bay ngang lục-địa, chim định vị-trí bằng đối-vật (landmark) nhưng làm sao chim giữ đúng hải-đạo, đ́ều-chỉnh độ dạt khi bay ngang biển rộng?

- Thoạt sanh ra, chim đă có ngay “Kim Chỉ Nam” nhưng c̣n hướng bay (phương-vị-độ bắc-từ), chúng học như thế nào ở những chim kinh-nghiệm hơn?

- Di-đ́ểu đă xuất-hiện trên trái đất mấy chục triệu năm. Trong thời-gian đó, từ-trường trái đất cứ thay đổi cực liên-tục, khoảng vài chục ngàn năm một lần (hai cực Nam Bắc địa-từ đổi ngược lại thành Bắc-Nam). Loài di-điểu thích-nghi với biến-chuyển này như thế nào?

- Khả-năng hải-hành của di-điểu được xem là hoàn-mỹ. Vận-tốc bay khá cao (50 gút cho Vịt trời). Chim lại thường sống rất thọ (Vẹt tới 100 năm).  Vậy người ta tự hỏi có biết bao nhiêu loài chim như Chim Báo Bão có thể suốt đời bay tổng cộng 8 triệu km, tức là gấp mấy chục lần quãng đường giữa trái đất và mặt trăng?

Có điều chắc chắn nhất: rất ít nhà hàng-hải tàu viễn-đương[215] nào kinh-nghiệm dày dặn như những con di-điểu đang bay trên trời cao kia.

 

 

H́nh 144. Loài Vẹt có con thọ cả trăm tuổi

 

Không có Chim độc. Người ta biết có nhiều thứ độc-vật như rắn, rít. Cũng có loại cá độc, ếch nhái độc. Nhưng có lẽ v́ thường sinh-hoạt trên không-trung phải cần giữ an-toàn sinh-mạng, loài chim không mang chất độc trong cơ thể. Có những chim ăn rắn độc nhưng bản thân chim lại không độc. Điều yên-tâm nhất cho chúng ta là không có một giống chim nào độc tài Vịnh Bắc-Việt cũng như quanh vùng Việt-Nam.

Theo bảng thống-kê của ngành điểu-học, chỉ có hai loài chim mang chất độc ở bộ lông và ngoài da. Tên chất độc là homobatrachotoxin (steroidal alkaloid). Có lẽ chim bị nhiễm từ cây cỏ độc khi kiếm ăn. Đó là: 

- Chim Rác Hooded Pitohui (Pitohui dichrous, the "garbage bird")

- Chim Ifrita (Ifrita kowaldi) sống trên đảo Papua, New Guinea.

Cá chép. Cá chép rất quen thuộc với dân Bắc Việt-Nam. Thịt chúng thơm và ngon. Cá bán ngoài chợ không lớn lắm, nhưng trong sách Sinh-Vật-Học, Chép là loài cá nước ngọt rất lớn, dài 120.0 cm SL, nặng tới 38 kg, sống tới 47 năm. Chỉ trừ một chút thiếu-hụt chiều cao, c̣n trọng-lượng và tuổi thọ của cá chép không thua kém một người trung-b́nh năm mười thế-kỷ trước đây.

Người Á-Đông cho rằng Cá Chép vượt Vũ-Môn sẽ hóa thành Rồng. Người học-tṛ đi thi đậu làm qua thường được ví như “cá vuợt Vũ-Môn” vậy.

Cá chép là phương tiện để các ông bà Táo về chầu trời ngày 23 tháng Chạp. Ở miền Bắc Việt Nam, người ta thường cúng một con cá chép hăy c̣n sống thả trong chậu nước, ngụ ư "cá hóa long" nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng lẹ làng đưa ông bà Táo về trời, tường-tŕnh mọi chuyện nhân-gian. Con cá chép này sẽ được "phóng sinh", thả ra ao hồ hay ra sông ngay sau đó để lên đường.

T́nh mẫu-tử.   Bức h́nh sau đây có lẽ vẽ bởi một nhà khoa-học Pháp cách đây hơn một trăm năm về một loài khỉ Việt-Nam (François Langur). Chúng tôi xin dùng nó để chấm dứt chương này

H́nh 145. Mẹ Khỉ bồng con (François Langur). T́nh mẫu-tử thiêng-liêng cũng như Con Người chúng ta.

 


Chương 6

Tài-Nguyên

 

6.1 – Quan-niệm mới về tài-nguyên

            Thời-gian gần đây, nhân-loại t́m ra thêm nhiều nguồn tài-nguyên mới trong thiên-nhiên. Bảng sơ-đồ dưới đây cho ta biết một quan-niệm mới mẻ về tài-nguyên nước ta:

 

 

H́nh 146. Các tài-nguyên thiên-nhiên chủ-yếu ở Việt-Nam[216]

 

Nếu hiểu như vậy, tài-nguyên thiên-nhiên bao trùm quá nhiều lănh-vực khó mà tŕnh-bày đầy đủ. Nh́n chung, Việt-Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhờ vị trí địa lư thuận lợi, Việt Nam có những nguồn tài nguyên phong phú như:

- Rừng đa dạng, có nhiều hệ sinh thái đặc sắc.

- Bờ biển kéo dài thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản và phát triển du lịch.

- Ngành nông - lâm nghiệp chiếm gần 60% tổng tài nguyên đất của cả nước và hầu hết tài nguyên tự nhiên như nước, rừng, biển...

Vấn đề khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên quí báu  hiện là một trong những mối quan tâm lớn của Việt Nam. Dưới đây, chúng tôi chỉ xin tŕnh-bày một số tài-liệu giới-hạn về Vịnh.

 

6.2 - Tài-nguyên Biển Việt-Nam

Sau nhiều lần khảo-sát, người ta thấy nguồn-lợi tôm cá Biển Đông thuộc Việt-Nam không phải quá nghèo kiệt như André Guilcher đă nói về "màu xanh hoang mạc của biển nhiệt-đới"[217] nhưng cũng không nên coi là quá giàu có như những vùng biển nông khác. Tuy thế, nạn cạn kiệt dần dần nguồn-lợi tôm cá biển ở dải nước ven bờ ở Việt-Nam rất đáng lo ngại v́ sự khai-thác bừa băi và v́ không có kế-hoạch hữu-hiệu.

Thềm lục-địa Việt-Nam không những khá giàu về tài-nguyên sinh-vật (cá và hải-sản các loại) mà c̣n thêm tài-nguyên dầu-khí rất đáng kể. Các tài-nguyên này đều đă được đánh giá nhưng chưa phải là đă thật đầy đủ, trước hết là do các điều-kiện kỹ-thuật.  Những công cuộc ḍ t́m và khảo sát hiện đang tiếp tục ở khu-vực phía Bắc và khu-vực miền Trung chắc sẽ c̣n cung cấp những dữ kiện mới, có khi bất ngờ, chẳng hạn như trên bể trầm-tích sông Hồng mà diện-tích lên đến gần 70,000 km, kéo dài từ miền vơng Hà Nội xuống đến đứt găy ngang Quy Nhơn, với chiều dày trầm-tích 1,5-12 km và khối lượng trầm-tích trên 600,000 km3.

Trong ba khu-vực biển Bắc, Trung và Nam nước ta, khu-vực biển Nam-phần chiếm đến 62% khả-năng khai-thác về cá, 72% về tôm và 42% về mực của cả nước. Về tài-nguyên dầu-khí, biển Miền Nam cũng có bách-phân khai-thác cao nhất, tập-trung trong hai bể chứa dầu-khí Cửu-Long và Nam Côn Sơn.

            Hàng năm, vùng Biển Đông thu-hoạch được khoảng từ 5 đến 6 triệu tấn hải-sản, chiếm vào khoảng 1/14 tổng-số sản-lượng của thế-giới (chừng 70 hay 80 triệu tấn). Khả-năng thu-hoạch hải-sản tại Biển Đông c̣n có thể cao hơn nhiều, ít nhất là 3 triệu tấn nữa[218].

 

6.3 - Các loài Cá và Các loài Không Xương Sống Biển

            Sau đây là một vài con số liên-hệ đến các loài Cá và các loài không xương sống biển Việt-Nam:

a. Cá biển. Tổng số loài cá biển được ghi nhận là 2038 loài của 717 giống và 198 hộ, 70% trong số đó là cá sống dưới đáy. Cá biển Việt Nam là các loài nhiệt đới quan trọng với một tỉ lệ nhỏ các loài cá nhiệt đới chủ yếu phân bố ở Vịnh bắc bộ. Các cuộc nghiên cứu về cá rạn san hô vừa mới ghi được tổng số 346 loài .

b. Các loài không xương sống biển. Trên 300 loài san hô scleeractinian đă được t́m thấy ở Việt Nam mặc dù việc phân loại vẫn c̣n chưa được thống nhất (Zou Ren Lin, 1975; Latypov, 1982, 1986; Vơ Sĩ Tuấn, 1987, 1988, 1993a,b, c; Nguyen Huy Yet et al 1989 Nguyễn Huy Yết, 1991; Lang Van Ken, 1991). Trong số này, 62 giống tạo nên rạn san hô, một số lượng lớn tương tự ở Thái Lan (61), Singapore (64), Micronesia (61)) và Malaysia (59) và chỉ ít hơn Indonesian một chút(72) và Philippines (70) (UNESCO, 1985). Sự phong phú về giống ở các khu vực khác nhau ở Việt Nam là kết hợp kết quả của sự khác nhau về điều kiện địa lư và thuỷ văn cũng như các công tác điều tra .

Các loài không xương sống biển khác bao gồm khoảng 2500 loài nhuyễn thể, 1500 crustacea, 700 polychaete, 350 loài echinoderm, 150 loài porifera, và một số nhóm khác.

c- Tảo biển. 653 loài tảo biển đă được xác định bao gồm 301 loài rhodophytes, 151 loài chlorophytes, 124 loài phaeophytes và 77 loài cyanophytes.[219]

 

6.4 - Ước-lượng Hải-Sản biển Việt-Nam.

Những lần nghiên-cứu gần đây, đặc-biệt là cuộc khảo-sát bằng siêu-âm vào tháng 4 và tháng 5-1999 cho những con số ước-lượng đầu tiên về hải-sản một cách cụ-thể. Chuyên-viên của Trung-Tâm Phát-triển Nghề Cá Đông-Nam-Á (SEAFDEC) dùng một con tàu nghiên-cứu chạy với vận-tốc đều-đặn là 10 gút (hải-lư/giờ) qua lại thành những luống trên biển. Trong khi tàu chạy, người ta cho máy trắc-lượng ghi nhận mật-độ của các hải-sinh-vật bằng cách đo hồi-ba của siêu-âm phát ra. Nguyên-tắc này giống như của sonar hay decca, chỉ khác là chùm sóng phát ra quét rộng lớn, không cần hội tụ lại chỉ với một mục đích là phát-hiện tàu địch.

H́nh 147. Bản-đồ ghi-nhận mật-độ hải-sản vùng biển Việt-Nam

 Hải-Sinh-Vật có mật-độ cao nhất tại vùng ngoài khơi Nghệ-An, rồi đến Thừa-Thiên và Vũng-Tàu.

 

Kết-quả được Rosidi Ali, Nguyễn Lam Anh, Vũ Duyên Hải, Shunji Fujiwara, Kunimune Shiomi và Nadzri Seman lập thành một báo-cáo[220] khá dài với những điểm chính sau đây:

- Quan-sát tổng-quát vào khoảng 27.6% diện-tích thăm-ḍ đạt tới mật-độ hải-sản khá cao, vượt 20 tấn/.km2  (tối-đa 113 tấn/km2, tối thiểu 0.1 tấn/km2)

- Trong khu-vực biển Việt-Nam được thăm ḍ, tổng-số hải-sản ước-lượng vào khoảng 9.26 triệu tấn với mật-độ trung-b́nh  15.93 tấn/km2

- Sự phỏng-định được dựa trên giả-thuyết là loài cá thu Decapterus maruadsi được coi như hải sản chính bao-phủ khắp vùng. Cá thu này được tính làm căn-bản, có chiều dài 15,4 cm và nặng 63g.

Ước-đoán hiện nay cho biết toàn thể Biển Đông có khả-năng sản-xuất trên 30 triệu tấn một năm. Ngư-nghiệp thu-hoạch chỉ chiếm khoảng 13 phần trăm số lượng trên, phần c̣n lại tiêu-thụ bởi các loài chim cá ăn thịt..

            Một phỏng-định khác cho rằng con người đă thu-hoạch được 5 triệu tấn cá từ Biển Đông. Biển này cung cấp 10% tổng-số lượng cá trên toàn thế-giới. các nước chung quanh khu-vực Biển Đông đă sản-xuất được tới 5 trong 8 loại tôm tốt nhất, đứng đầu trong ngành  nuôi trồng thủy-sản.

            Quan-sát bản-đồ của “Trung-Tâm Phát-triển Nghề Cá Đông-Nam-Á”, ta thấy hải-phận Bắc-phần rất nhỏ hẹp so với hải-phận Trung và Nam-phần. Dù mật-độ hải-sản cao, nhưng tiềm-năng không nhiều lắm..

Năm nay, 2002, ngành thủy sản dự kiến sẽ khai thác được 2,1 triệu tấn thủy-sản và đạt kim ngạch xuất khẩu 1,6 tỷ Mỹ-kim. Tổng-số này bao gồm chừng 1/3 đến từ cách-thức nuôi trồng thủy-sản, Tỷ-lệ này đang có khuynh-hướng gia-tăng.

 

6.5 - Các Vùng đất ngập nước ở Việt Nam đóng Vai tṛ Quan-trọng như thế nào?

Theo Công ước Ramsar [221] th́ "Đất ngập nước bao gồm: những vùng đầm lầy, đầm lầy than bùn, những vực nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, những vùng ngập nước tạm thời hay thường xuyên, những khu-vực nước đứng hay nước chảy, là nước ngọt, nước lợ hay nước mặn, kể cả những vực nước biển có độ sâu không quá 6m khi triều thấp".

Dù rộng hay hẹp, vai tṛ của các vùng đất ngập nước hầu như đều giống nhau, đó là cung cấp cho con người nhiên liệu, thức ăn, là nơi giải trí, là nơi lưu trữ các nguồn gen quư hiếm. Đất ngập nước là những hệ sinh-thái có năng suất cao, cung cấp cho con người gần 2/3 sản-lượng đánh bắt cá, là nơi cung cấp lúa gạo nuôi sống gần 3 tỷ người. Đất ngập nước cũng đóng một vai tṛ quan trọng trong sự sống c̣n của các loài chim.

Để bảo tồn các vùng đất ngập nước, năm 1971, Công ước Ramsar đă ra đời. Đây là công ước quốc tế về bảo tồn sớm nhất thế-giới, nhiều thành quả quan trọng về việc bảo tồn các vùng đất ngập nước đă được ghi nhận. Ramsar bắt buộc 92 nước thành viên của ḿnh phân khu và bảo vệ các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế và thúc đẩy việc "sử-dụng hợp lư" các vùng này. Mới đây, gần 800 khu đă được đưa vào danh sách bảo tồn.

            Tại Việt-Nam,  phần lớn ngũ cốc, cá, tôm và các loại lương thực, thực phẩm khác đều được sản xuất từ những vùng đất ngập nước, đặc biệt là từ châu thổ sông Hồng ở phía Bắc và châu thổ sông Cửu Long ở phía Nam. Ngoài vai tṛ sản xuất nông nghiệp và thủy-sản, đất ngập nước c̣n đóng vai tṛ quan trọng trong thiên nhiên và môi trường như lọc nước thải, điều hoà ḍng chảy (giảm lũ lụt và hạn hán), điều hoà khí hậu địa-phương, chống xói lở bờ biển, ổn định mức nước ngầm cho những vùng sản xuất nông nghiệp, tích luỹ nước ngầm, là nơi trú chân của nhiều loài chim di cư quư hiếm, là nơi giải trí, du-lịch rất giá trị cho người dân Việt Nam cũng như khách nước ngoài. Về lâu dài, các vùng đất ngập nước của Việt Nam đă và đang đóng vai tṛ quan trọng trong công cuộc phát-triển kinh-tế và xă-hội.[222] 

  

6.6 – Tài-nguyên ngành Ngư nghiệp

Biển Việt-Nam là biển nhiệt-đới nên mang những đặc điểm chung của vùng biển này: biển có thành phần loài đa-dạng (có đến hơn 2000 loài) nhưng số lượng từng cá thể loại lại không lớn. Các loài có giá-trị kinh-tế chiếm một tỷ lệ khiêm tốn, chỉ khoảng 10% tổng số (trường hợp riêng biệt có thể đến 20-30%).

Các đàn cá thường có quy mô không lớn, lại phân bố rải rác. Cơ thể cá thuộc loài nhỏ hoặc trung-b́nh, tuổi thọ thấp nhưng bù lại, khả-năng tái-sinh và phục hồi trữ lượng tương-đối nhanh do cá đẻ hầu như quanh năm và thành nhiều đợt, tập trung vào các vụ xuân hè ở các khu-vực ven bờ, cửa sông và hải-đảo.

            Theo những số liệu chưa đầy đủ (1), số lượng lao-động nghề cá của tất cả các đảo gộp lại là vào khoảng 24,000 người: ở vùng biển Bắc Bộ là 5700 người, ở hai vùng biển Trung Bộ và Đông Nam Bộ là 10.500 người, c̣n ở vùng biển Tây Nam là 7.500 người. Như vậy so với tổng số dân sống trên các đảo như đă nêu trên, tỷ lệ lao-động làm nghề cá chỉ chiếm 13-14%, như vậy là c̣n rất khiêm tốn.

 

H́nh 148.- Bào-ngư, hải-sâm, rong biển

 

Tuy nhiên, nếu thống-kê theo từng đảo th́ tỷ lệ này có phần khả quan hơn. Tỷ lệ lao-động nghề cá ở đảo Cô Tô chiếm đến 55% so với số dân trên đảo, ở Cát-Hải là 35-40%,

Về phương tiện đánh bắt, ngư-dân trên các đảo thường chỉ có những tàu thuyền đánh cá nhỏ, công-suất trên dưới 25-30 CV nên cũng chỉ hoạt-động cách xa bờ đảo nhiều lắm là đến độ sâu 50m mét nước. Hoạt-động đánh cá biển khơi c̣n hạn chế v́ cần phải có tàu công-suất lớn. Ngay ở Phú Quốc là nơi có nhiều khả-năng hơn cả th́ trong số 1500-1600 tàu thuyền, số có công-suất trên 59 CV chỉ chiếm khoảng 2% c̣n số tàu thuyền dưới 10 CV chiếm đến trên 67%, số c̣n lại có công-suất từ 10 đến 59 CV. Nhu-cầu có những tàu đánh cá công-suất lớn tỏ ra rất cấp thiết đối với các đảo nằm rất xa bờ như đảo Thổ Chu và Bạch-Long-Vĩ, những tàu thuyền có công-suất lớn 150-250 CV hay hơn là rất cần-thiết không những để đánh cá mà c̣n để liên-lạc với đất liền và làm các nhiệm-vụ khác.

            Cũng như đối với dải ven bờ của đất liền, việc đánh cá loanh quanh, ven bờ các đảo cũng dễ làm cạn kiệt nguồn-lợi ở đấy, trong khi lẽ ra chính chúng phải được trang bị để trở thành những "đầu cầu" cho hoạt-động đánh cá biển khơi. Việc trong năm 1996, tỉnh Khánh Ḥa bắt đầu tổ-chức những đợt cho tàu thuyền ra đánh cá ở vùng quần-đảo Trường Sa là một minh chứng cho thấy rằng có khả-năng làm được điều đó.

 

6.7 - Tài-nguyên nông lâm nghiệp trên các đảo

Ở trên các đảo có điều-kiện, hoạt-động nông lâm, nghiệp vẫn đóng một vai tṛ quan-trọng trong sự phát-triển kinh-tế

Dân-cư trên các đảo - dù là đảo lớn hay đảo nhỏ - theo tập quán bao giờ cũng t́m cách khai-thác các tài-nguyên trên đảo vào mục đích nông lâm nghiệp. Đấy là v́ trước khi trở thành ngư-dân, họ đều là nông dân, và các hoạt-động này đảm bảo sự sống hàng ngày của họ.

So với lao-động ngư nghiệp, số lao-động làm nông-nghiệp vẫn chiếm phần hơn. Lấy thí-dụ ở Phú Quốc, mặc dù nghề cá rất phát-triển, nhưng lực lượng lao-động làm nghề này chỉ chiếm khoảng 17% của tổng số lao-động xă-hội, đứng thứ ba sau cả lực lượng làm tiểu thủ công-nghiệp và công-nghiệp; lực lượng lao-động nông, lâm nghiệp chiếm vị-trí thứ nhất với 51,9% của tổng số. Ở đảo Phú Quư cũng có hiện tượng tương tự: lực lượng lao-động nông-nghiệp chiếm đến khoảng 70%, gần 20% làlao-động ngư nghiệp, c̣n lại là các hoạt-động khác. Ở vùng biển phía bắc, các đảo Cát Bà, Vĩnh Thực, Cái Chiên v,v... đề có lực lượng lao-động làm nông lâm nghiệp vượt trội.

Mặc dù nông lâm nghiệp chiếm nhiều lực lượng lao-động nhất trên các đảo nhưng giá-trị tổng sản-lượng không cao, trừ một phần ở Phú Quốc và Phú Quư. Tuy nhiên ngay cả ở hai đảo này, cũng khó ḷng mà đặt vấn-đề tự túc lương thực và thực-tế cũng cho thấy phần lớn diện-tích khai khẩn được đều được dùng để trồng cây lâu năm như tiêu, điều, dừa và một số cây lâu năm khác (như ở Phú Quốc), hoặc chuyển dần sang trồng màu, hành, tỏi (như ở Phú Quư). Gần đây đă có phong trào chuyển đất trồng lúa nước sang trồng cây ăn quả các loại như ở Cát Bà, Thanh Lam.

 

6.8 - Chăn nuôi Gia súc Gia cầm trên các Đảo

Chăn nuôi gia súc gia cầm trên các đảo vẫn giữ được vị-trí của ḿnh, do rất sẵn lao-động và thức ăn từ các phế phẩm của cá.

Hoạt-động lâm nghiệp, đúng hơn là hoạt-động khai-thác rừng, là một hoạt-động phổ biến và thường xuyên. Đấy đầu tiên là nhằm cung cấp vật-liệu xây-dựng, gỗ gủi đun hàng ngày, sau đó mới đến các nguyên liệu cho các nghề tiểu thủ công-nghiệp và cả công-nghiệp nữa (đóng vỏ thuyền đi biển). Công tác trồng rừng trên các đảo c̣n khó hơn trên đất liền v́ thiếu nước tưới - ngay nông-nghiệp cũng chỉ dựa được vào nước trời - và đất đá khô cằn hơn, không kể gió mạnh và mưa băo. Lớp phủ rừng trên phần lớn các đảo đă bị thu hẹp đến mức có thể coi như là cạn kiệt; không lấy làm lạ là các cây bụi và trảng cỏ là lớp phủ phổ biến. Các đảo Lư Sơn, Phú Quư hầu như không c̣n rừng, điều đó làm tăng thêm độ khô hạn của khí-hậu và của đất.

Các đảo c̣n rừng - tuy không giàu lắm như trước - là Phú Quốc, Côn Đảo, Thổ Chu, Ḥn Khoai, Cù Lao Chàm, Cồn Cỏ, Ḥn Mê, Cát Bà và một số ít đảo khác ở Kiên Giang và Quảng-Ninh. Bằng mọi cách phải bảo-vệ cho được lớp phủ rừng c̣n lại đó và trồng rừng.

Các hoạt-động công-nghiệp và tiểu thủ công-nghiệp trên hầu hết các đảo c̣n nghèo nàn, tuy một số đăc sản có vị-trí đáng kể trên thị trường trong nước và được xuất khẩu ra nước ngoài   

Các đảo - dù là đảo ven bờ - cũng vẫn là những "vùng sâu, vùng xa" mà chỉ gần đây mới dược chú ư đến. Do những nhu-cầu hàng ngày của ḿnh, dân-cư ở các đảo đă lập một số cơ sở thủ công-nghiệp để sản-xuất các vật-dụng hàng ngày như xưởng đóng thuyền gỗ, xưởng mộc, xưởng rèn v.v... Các xưởng chế-biến hải-sản như làm tôm khô, cá khô có vẻ phát đạt hơn, các xí nghiệp chế-biến nước mắm cũng vậy. Ở miền Bắc, nước mắm Cát-Hải được chấp nhận trên thị trường nhưng vẫn c̣n kém nước mắm Phú Quốc. Sản-lượng nước mắm tại đảo sau hàng năm đạt trên 5 triệu lít, phần lớn được đóng chai để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

Khó ḷng mà nói đến việc phát-triển công-nghiệp trên các đảo nếu không giải-quyết được vấn-đề cung cấp điện, nước. Việc trang bị những máy nổ có công-suất lớn nhỏ cho tất cả các đảo có người ở tỏ ra rất cần-thiết (ngay nếu như chưa phục-vụ các xí nghiệp công-nghiệp th́ cũng có tác-dụng nâng cao đời sống tinh thần và văn-hóa cho nhân dân). Ở các đảo lớn như Cát Bầu, Cát Bà, Cát hải, Phú Quư, Phú Quốc cần nghĩ đến việc xây-dựng các nhà máy điện nhỏ hay trung-b́nh.

Việc có điện nước cũng góp phần thúc đẩy các hoạt-động dịch vụ có thể mang lại thu nhập cao cho địa-phương, trước hết là hoạt-động du-lịch. Nhiều kế-hoạch phát-triển du-lịch đảo, nhiều tranh ảnh và áp phích đă cố gắng thu hút khách trong nước và nước ngoài nhưng kết-quả c̣n hạn chế v́ tổ-chức du-lịch c̣n thô sơ.

 

6.9 - Tài-nguyên Thềm Lục-địa, các Đảo ven bờ và các Quần-đảo   

Các tài-nguyên mà thềm lục địa, các đảo ven bờ và các quần-đảo xa bờ chưa phải là đă được biết hết. Rất cần-thiết phải có một chiến-lược phát-triển kinh-tế - xă-hội các vùng đảo, coi như các căn cứ để từ đó thực-hiện có hiệu-quả chức năng quản lư trên các vùng biển mà Việt-Nam có chủ quyền. 

Những công cuộc điều-tra trong nhiều năm mới giới hạn từ kinh-độ 110 Đông trở vào phía bờ biển cho thấy các băi cá phân bố không đồng đều và có quy mô thay đổi. Tính ra có đến 12 băi cá chính ở các khu-vực ven bờ và 3 băi cá trên các g̣ nổi ngoài khơi là có giá-trị hơn cả.

Các băi cá chính thường có kích-thước lớn và tương-đối ổn-định trong đó đáng chú ư là các băi ở Bạch-Long-Vĩ, băi giữa vịnh Bắc Bộ, ở Ḥn Gió, Thuận An, Cù Lao Thu có thể khai-thác 15-20 ngh́n tấn năm. Các băi cá g̣ nổi vùng khơi chỉ cho sản-lượng khoảng 2-3 ngàn tấn năm. Ở Đông Nam Bộ và Nam Bộ, các băi cá ở vùng nước xa bờ sâu trên dưới 50m có năng suất ổn-định hơn là ở vùng biển phía bắc. Một số loài cá có giá-trị kinh-tế cao thường tập trung ở đấy, thí-dụ như cá Nục (Carangidae), cá Hồng (Lutianidae), cá Mối (Synodidae), cá Chỉ Vàng (Selaroides leptolepis), cá Thu Ngừ (Seombridae), cá Mú (Serranidae) v.v...

Việc đánh giá trữ lượng có phần khó khăn hơn và đấy là điều dễ hiểu. Những tính toán gần đây nhất cho thấy trữ lượng cá biển ở Việt-Nam là khoảng trên 2,7 triệu tấn, trong đó cá nổi chiếm gần 2/3, c̣n lại là cá đáy (chưa tính vùng biển sâu). Ngoài ra c̣n có cá vùng g̣ nối ngoài khơi Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết, Côn Sơn, có trữ-lượng ước-tính 10,000 tấn, gồm chủ-yếu cá thu và cá đỏ môi.

Trữ lượng cá lớn nhất tập trung ở vùng biển Đông Nam Bộ, chiếm đến 44% tổng trữ lượng, các vùng biển khác ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Tây Nam Bộ mỗi vùng chỉ chiếm từ 18 đến 20%. Riêng về cá nổi th́ mặc dù Đông Nam Bộ vẫn đứng hàng đầu (30% tổng trữ lượng) nhưng trữ lượng cá nổi ở vùng biển Trung Bộ cũng không thua kém bao nhiêu (từ 18 đến 28%)(1) .

Ngoài ra, vùng biển Việt-Nam cũng có thêm nguồn-lợi tôm biển, mực v.v... kể cả rong biển, các nguồn-lợi đặc sản vùng băi triều ven bờ (cua, ṣ, ngao, vọp v.v...). Riêng về tôm, đến nay đă biết được 101 loài thuộc 34 giống của 11 họ. Số loài có giá-trị kinh-tế có khoảng 50 loài, trong đó có tôm he (Penaeidae), tôm hùm (Palinuridae) và một số loài có giá-trị xuất khẩu. Sự phân bố các băi tôm thay đổi từ bắc xuống nam nhưng căn cứ vào sản-lượng đánh bắt được, có thể coi vùng biển Nam Bộ (đặc biệt là ở Minh-Hải và Kiên-Giang) chiếm đến khoảng 80% tổng sản-lượng (đánh bắt được) của cả nước.

 

6.10 - Hướng Đi Lên của một Hải-Đảo

Cô Tô có nguồn hải-sản phong phú, dồi dào. Nằm trong hệ các vịnh Bắc Bộ, ngư trường Cô Tô có non 1000 loài cá, trong đó khoảng 60 loài có giá trị kinh-tế caolà đối tượng đánh bắt như: cá hồng, song, mú, thu, chim... Các loài giáp sát, nhuyễn-thể cũng có trữ lượng lớn: tôm, mực trai, ngoạc, bào ngư... Cạnh đảo Cô Tô c̣n có hai băi trai ngọc ở Cẩu Thầu Mỷ, có băi bào ngư cũng từng được khai-thác tốt.

Kinh-tế trên quần đảo Cô Tô đă phát-triển đến đỉnh cao vào năm 1977. Năm đó có trên 6000 dân, sản-lượng lương thực đạt 646 tấn, trong đó thóc 559 tấn, cam, chanh chuối gần 100 tấn, chăn nuôi 2500 con lợn, 670 con ḅ, 2 đồng muối với diện-tích 22ha làm được 1200 tấn muối. ngề đnáh bắt cá là nghề chính, năm cao nhất đánh bắt được 17,000 tấn, năng suất lao-động b́nh quân 10 tấn /lao-động. Trước năm 1978, Cô Tô có 30 tàu thuyền lớn với tổng công-suất 1835cv, các nghề chính là vó vây, kết hợp ánh sáng, lưới rê và các nghề ven bờ. Trại nuôi cấy ngọc trai đă từng đạt số lượng cao 250kg ngọc trai. Ngoài ra trên đảo có cơ sở xửa chữa tàu thuyền, ngụ cư về theo luồng Cô Tô- Cái Rồng (Vân đồn), Cô Tô- Ḥn Gai. Đường bộ có 12 km đường cấp phối xuyên đảo Cô Tô, Trên đảo Thanh Lân chỉ có đường ṃn đi bộ dọc đảo dài 11km.

UBND tỉnh Quảng Ninh và Bộ Thủy-sản xem xét tổ-chức ngay việc thí điểm nuôi bào ngư (một loại thủy-sản quư có giá trị kinh-tế cao) tại vùng biển Cô Tô

 

6.11 - Các Tài-nguyên Khoáng-sản Biển 

Các tài-nguyên khoáng-sản biển đă được biết đến nhiều, đặc biệt là dầu-khí. Chỉ có thể nói rằng thềm lục-địa Việt-Nam có khoảng 5 bể trầm-tích (chủ-yếu là các bể trầm-tích Xênôzôi) có khả-năng chứa dầu-khí: bể trầm-tích sông Hồng, bể trầm-tích Trung Bộ, bể trầm-tích Cửu-Long, bể trầm-tích Nam Côn Sơn và bể trầm-tích Thổ Chu - Mă Lai.

Trữ lượng dự báo địa-chất có khả-năng đạt được đến 10 tỷ tấn dầu, trữ lượng khai-thác có thể đạt khoảng một nửa. Những công cuộc thăm ḍ cho thấy bể nào cũng có khả-năng về dầu-khí nhưng hai bể Cửu-Long và Nam Côn Sơn là có những mơ đă được khai-thác nhiều hơn cả, ít nhất là cho đến nay. Trữ lượng dự báo khí của các mơ đă khai-thác (Bạch Hổ, Đại Hùng, nếu không có những phương tiện thích hợp như tàu thuyền, bè mảng. Trong trường hợp đó, dải bờ biển kéo dài từ bắc xuống nam, các đảo và quần-đảo phân bố rải rác trên biển Đông đóng vai tṛ của những cứ điểm, những vọng gác cố-định mà con người có thể sử-dụng để quản lư và khai-thác các tài-nguyên biển. Đất liền và biển không tách rời được với nhau trong trường hợp đó.

- Rừng già, c̣n gọi là rừng sơ cấp, chưa được khai-thác, có nhiều loại cây đại thụ, dây leo và các loại dă thú. Rừng rậm Việt Nam tập trung ở các miền núi Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, trong rặng Hoàng Liên Sơn, vùng núi Thanh Nghệ, vài khu trên rặng Trường Sơn, có nhiều loại danh mộc như lim, gụ, sao, trắc, giẻ, nghiến, vàng tâm, huỳnh đàn, cẩm laị.

 

6.12 - Thuỷ sản trong Sông và ngoài Biển

Sông Hồng và các phụ lưu chính có tổng chiều dài hơn 700km. Các phụ lưu nhỏ cũng có tổng chiều dài lên tới hàng trăm km. Trong lưu vực có các đầm, hồ, hồ chứa theo mùa hay vĩnh cửu với diện tích mặt nước vào khoảng 25000 ha. Có thể nói, Lưu vực sông Hồng rất có tiểm năng nuôi trồng thuỷ sản.

Theo các số liệu thu thập được, đồng bằng có rất nhiều chủng loại cá như cá chép, chép đen, chép đỏ, cá chuối, cá rô, cá trê, cá chầy, cá nhồng... Đặc biệt ở sông Lô có loại cá Anh vũ rất có giá trị.

Thuỷ sản đóng vai tṛ quan trọng trong nền kinh tế, đóng góp 9% sản-lượng GDP (Gross Domestic Product) của toàn đất nước. Cá và các loài thuỷ sản nước mặn, nước ngọt cung cấp 30% lượng protein cho dân cư nông thôn và thành thị. Mức tiêu thụ cá vào khoảng 10 kg/người/ năm.

H́nh 149. Các nguồn cung-cấp thực-phẩm của miền Bắc và các băi đánh cá chính trong Vịnh Bắc-Việt[223]

 

Theo số liệu thống kê, sản lượng cá, tôm, cua và các hải sản khác vào khoảng 1,1 triệu tấn/ năm (năm 1992), trong đó 70% là đánh bắt hải sản, 10% đánh bắt từ các sông hồ, 20% nuôi trồng. Cuối năm 1992, ở đồng bằng sông Hồng có khoảng 4000 thuyền đánh cá, trong đó 3500 thuyền có gắn động cơ. 120000 người kiếm sông bằng nghề cá, trong đó 10000 người sống bằng nghề nuôi trồng thuỷ sản, 36000 người sống bằng nghề đánh bắt và 12000 người sống bằng nghề chế biến thuỷ sản và các dịch vụ liên quan khác.

            Theo những số liệu chưa đầy đủ(1), số lượng lao-động nghề cá của tất cả các đảo gộp lại là vào khoảng 24,000 người: ở vùng biển Bắc Bộ là 5700 người

Trên một số đảo, c̣n có hoạt-động nuôi trồng thủy hải-sản, như các đầm nuôi tôm, cua ở Cát Hải, huyện Vân Đồn, Cô Tô, Cái Bầu và một số đảo ở miền Trung. Cũng như ở các băi trên đất liền, công việc nuôi trồng c̣n mang nặng tính quảng canh, nhiều nhất là bán thâm canh. Do đó về mặt này c̣n phải đầu tư nhiều hơn nữa do năng suất chỉ mới đạt khoảng 1/10-1/8 năng suất trong khu-vực Đông Nam Á.

H́nh 150. Các loại cá Việt-nam có giá-trị thương-mại.

 

Đáng chú ư về sự phong-phú của các loài hải-sản Quảng Ninh. Do địa-h́nh vùng biển và đáy biển đa-dạng, chỗ là ḍng chảy, chỗ là vùng kín gió lặng sóng, đáy biển chỗ là cồn đá, chỗ là bờ băi phẳng, chỗ là rạn san-hô mênh mông nên Quảng Ninh có hầu hết các chủng loại thủy-sản của nước ta. Ở đây có nhiều đàn cá lớn và có nhiều giống cá quư như song, ngừ, chim, thu, nhụ... Trong các loài tôm có các giống tôm he. Núi Miều đứng hàng đầu về chất lượng tôm Việt Nam. Ngoài biển c̣n có nhiều loại đặc sản như trai nhọc, bào ngư, đồi mồi, tôm hùm, ven bờ có ṣ huyết, ngao, ngán, hàu, rau câu, sái sùng. Ven bờ biển và trên vịnh đang phát-triển nuôi trông các loại hải đặc-sản. Ngư trường rộng và sự đa-dạng về chủng loại thủy-sản vẫn luôn luôn là nguồn lợi quan-trọng, một thế mạnh của kinh-tế biển Quảng Ninh

H́nh 151. Tôm hải-sản nuôi trồng chính của Việt-Nam

 

6.13 - Tài-nguyên Khoáng-sản quanh Vịnh Bắc-Việt

Tài-nguyên khoáng-sản vùng duyên-hải Vịnh Bắc-Việ

Tài nguyên thiên nhiên được chia thành hai loại: tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo.

* Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật v.v...) là tài nguyên có thể tự duy tŕ hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lư một cách hợp lư. Tuy nhiên, nếu sử dụng không hợp lư, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thoái không thể tái tạo được. Ví dụ: tài nguyên nước có thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất có thể bị mặn hoá, bạc màu, xói ṃn v.v...

* Tài nguyên không tái tạo: là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc biến đổi sau quá tŕnh sử dụng. Ví dụ như tài nguyên khoáng sản của một mỏ có thể cạn kiệt sau khi khai thác. Tài nguyên gen di truyền có thể mất đi cùng với sự tiêu diệt của các loài sinh vật quư hiếm.

Tài nguyên con người (tài nguyên xă hội) là một dạng tài nguyên tái tạo đặc biệt, thể hiện bởi sức lao động chân tay và trí óc, khả năng tổ chức và chế độ xă hội, tập quán, tín ngưỡng của các cộng đồng người.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đang làm thay đổi giá trị của nhiều loại tài nguyên. Nhiều tài nguyên cạn kiệt trở nên quư hiếm; nhiều loại tài nguyên giá trị cao trớc đây nay trở thành phổ biến, giá rẻ do t́m được phương pháp chế biến hiệu quả hơn, hoặc được thay thế bằng loại khác. Vai tṛ và giá trị của tài nguyên thông tin, văn hoá lịch sử đang tăng lên.

Lê Bá Thảo. Việt-Nam - Lănh-thổ và các Vùng Địa-Lư. Nhà Xuất-bản Thế-giới, Hà Nội,1995. Trang 51-52)

 

            Các mỏ trầm tích được h́nh thành tại các vụng biển cũ chủ yếu thuộc các chu kỳ Hecxini và Inđôxini, không loại trừ thuộc các chu kỳ Calêđôni cổ hơn hay trẻ hơn. Các mỏ này thường có quy mô lớn: được biết đến nhiều nhất là bể than Quảng Ninh (tuổi Trias thượng), mỏ apatit Lào Cai (tuổi Cổ sinh hạ thuộc chu kỳ Calêđôni), các mỏ than nâu h́nh thành ở các vùng hồ Nêôgen, các mỏ dầu khí trong các trầm tích tuổi từ Trias đến Plêistoxen trong nội địa, nhất là trong các bồn trầm tích trên thềm lục địa khu vực Côn đảo. Nhiều dự báo cũng cho thấy dầu và khí tập trung ở các bồn tương tự quanh các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

            Cho đến nay, tổng số mỏ và điểm quặng biết được đă lên đến khoảng trên 2000, gồm hơn 90 loại khoáng sản khác nhau, trong đó 120 mỏ thuộc 30 loại khoáng sản đă được đưa vào khai thác hoặc thiết kế khai thác. So với một nước có diện tích và dân số trung b́nh như Việt Nam th́ số lượng và trữ lượng các mỏ có thể coi là tương đối khả quan. Đất nước như vậy có than, dầu khí cho công nghiệp năng lượng, chưa kể than nâu (thí dụ ở đồng bằng sông Hồng có đến hàng tỷ tấn nhưng ở độ sâu rất lớn trên 1000m) và đất hiếm phóng xạ (hơn 500 triệu tấn Phong Thổ).

            Các tài nguyên khoáng sản cần thiết cho công nghiệp luyện kim đen có sắt, mangan, crôm, titan. Mỏ sắt vùng Trại Cau-Linh Nham-Cù Vân (Thái Nguyên) cũng như một số mỏ khác ở hà Giang, Thanh Hóa, Thừa Thiên, v.v... trong thực tế chỉ có giá trị địa phương. Mỏ được coi là lớn nhất ở Thạch Khê (Hà Tĩnh) hiện đang chờ được khai thác, do nằm sát ngay bở biển và nằm sâu dưới đất.

            Công nghiệp luyện kim màu có thiếc, ch́, kẽm, đồng, vônfram, tungsten, bôxit, v.v..., trong đó thiếc là đáng chú ư do có mơ Quỹ Hợp; bôxí ở Tây Nguyên (được ước tính là có trữ lượng rất lớn nhưng quy tŕnh công nghệ phức tạp), đồng ở Bản San (Sơn La). Vàng và bạch kim cũng có nhiều mỏ hoặc điểm quặng nhưng sự phân bố rải rác.

            Có thể dùng cho công nghiệp hóa chất có mỏ apatit Cam Đường (Lào Cai). Mỏ đă được khai thác từ lâu. Ngoài ra c̣n có pyrit (loại mỏ trung b́nh) barit (có thể coi là lớn) cũng như barit-fluorit, bentônit.

            Việt Nam từ Bắc chí Nam giàu về nguyên liệu dùng trong công nghiệp xây dựng, thông thường với trữ lượng rất lớn như đá vôi (gần như toàn miền Bắc, một bộ phận ở Hà Tiên), đất sét làm gạch ngói và gốm (ở Quảng Ninh và ở nhiều tỉnh), cát thủy tinh ở Thủy Triều (Phú Khánh) và ở Vân Hải (Quảng Ninh), cao lanh (Biên Ḥa thuộc Đồng Nai), Minh Tân (Hải Hưng và Quảng Ninh), đá hoa và granit chất lượng cao, v.v...

            Trong thời gian gần đây, đă phát hiện nhiều điểm đá ngọc (rubi, xaphia).

            Nh́n chung lại, Việt Nam có những tài nguyên ḷng đất đa dạng, một số mỏ có trữ lượng phong phú nhưng chúng đă bắt đầu có dấu hiệu giảm sút, một số khác giàu nhưng điều kiện khai thác khó khăn và cần có đầu tư lớn: dầu khí, sắt (Thạch Khê), quặng phóng xạ. Chắc chắn là các tài nguyên ḷng đất này chưa thăm ḍ và kiểm kê hết được - ngay đối với các mỏ cũ cũng chưa được đánh giá đầy đủ - nhưng vẫn có thể kết luận rằng chúng có thể đáp ứng được nhu cầu trước mắt ở một số ngành công nghiệp quan trọng.

            Cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa ngày càng phát triển, có vẻ như các tài nguyên này khó ḷng đáp ứng được mọi yêu cầu. V́ vậy việc sử dụng hợp lư và tiết kiệm các tài nguyên ḷng đất - các tài nguyên không hoàn lại - cần được đặt ra ngay từ bây giờ, dù đă là chậm.

 

 

 

 

H́nh 152. Tài-nguyên khoáng-sản vùng duyên-hải Vịnh Bắc-Việt[224]

 

6.13 - Thực-vật Điển-h́nh Vùng Duyên-Hải Bắc-Việt

Thực-vật ở Quảng Ninh có thế mạnh ở rừng và đất rừng. Đất canh tác hẹp và kém ph́ nhiêu nên sản-lượng lúa, ngô, khoai thấp song bù lại là tiềm-năng trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và nhiều loại cây công-nghiệp. Hiện nay Quảng Ninh đang mở rộng diện-tích cây ăn quả, trong đó có vùng vải thiều Đông Triều 3,000 ha đă cho thu hoạch. Vùng chè Quảng Hà đă cho chè búp chất lượng tốt.

Trước đây Quảng Ninh có nhiều giống gỗ tốt, nhiều nhất là lim, táu, nay diện-tích lớn nhất là trồng thông vừa lấy nhựa vừa lấy gỗ. Rừng bạch đàn, keo cũng đang mở rộng để vừa phủ kín đất trồng, vừa lấy gỗ cho công-nghiệp mỏ (chống ḷ). Vùng núi Quảng Ninh đang phục hồi và phát-triển những giống cây đặc sản như quế, hồi, trẩu, sở và những cây dược liệu. Trong đó ở Quảng Ninh có cây ba kích nổi tiếng. Với 3/4 diện-tích tự nhiên là rừng và ít rừng, nếu được bảo-vệ và trồng thêm nhiều, rừng Quảng Ninh sẽ phát huy thế mạnh và là một nguồn lợi lớn của Quảng Ninh.

 

 

 

 

H́nh 153. Các loại lưới cá Việt-Nam

 

Rừng Hải Ninh có một số gỗ quư như sến, lim, táu, thông và một số dược thảo như hà thủ ô, quế, hồi, sa nhân. Rừng Hải Ninh có nhiều dă thú như hươu, nai, beo, gấụ.., nhất là ở rừng Tiên Yên 

Rừng Hà Tĩnh có lâm sản các loại như gỗ lim, củ nâu, gụ, mây, tre, nứa; một số cây làm thuốc như quế, sâm, trầm hương, quán chúng thảọ... Khoáng-sản có một số mỏ sắt, thiếc, than đá, đất sét. Dân chúng cũng hành nghề đánh tôm cá dọc theo các sông rạch và bờ biển.

 

 

H́nh 154. Cá cơm (Coilia macrognathos), nguyên-liệu làm nước mắm

 

6.14 - Nghề đánh bắt hải-sản

Quảng Ninh có ngư trường rộng lớn, có bờ biển dài hơn 250 km từ Trà cổ thuộc thị xă Móng Cái giáp với Trung Quốc đến đảo Hải Nam thuộc huyện Yên Hưng giáp với Hải Pḥng. Qua khảo sát, điều-tra cho thấy biển Quảng Ninh có nguồn lợi thủy-sản rất phong phú, có nhiều loại tôm cá, có nhiều hải-sản quư có giá trị kinh-tế cao cả ở trong nước và xuất khẩu như các loại cá ngon nổi tiếng như chim, thu, nhụ, đé, song, ngừ, các đặc sản như: tôm he, mực ống, cua, ghẹ, sái sùng, ṣ huyết, hải sâm, ngán, các loại ốc... Trong những năm gần đây, Quảng Ninh đă quan tâm đầu tư nâng cấp tàu thuyền, ngư cụ, trang thiết bị hiện đại để đánh bắt xa bờ, nâng cao sản-lượng, kết hợp với việc đẩy mạnh nuôi trồng thủy-sản ở ven bờ. Đó là một hướng đi đúng, phù hợp với thời đại theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Đánh bắt hải-sản ở Quảng Ninh là một nghề truyền thống, có lịch sử lâu đời, đến nay vẫn c̣n tồn tại nhiều cách thức đánh bắt thủ công cổ truyền, không những có ư nghĩa về mặt kinh-tế xă-hội mà c̣n có ư nghĩa rất lớn về mặt văn hoá và du-lịch. Kết quả khai quật ở nhiều di chỉ khảo cổ học ở vùng ven biển hạ Long cho thấy nghề đánh bắt hải-sản xuất hiện rất sớm, cách đây bốn, năm ngàn năm đến sáu, bảy ngàn năm. Đó là các ḥn ch́ lưới bằng đất bằng đất nung, các mũi nhọn, kim khâu bằng xương để đan lưới t́m thấy ở các di chỉ Soi Nhụ, Thoi Giếng, Ngọc Vừng, Hoàng Tân... hiện được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Quảng Ninh.

Hiện tại người dân vùng biển Quảng Ninh c̣n duy tŕ nghề đánh bắt hải-sản bằng thủ công khá phổ biến. Đó là các nghề câu mực, câu cá song, câu cáy, nghề chă, nghề chài, nghề đào sá sùng, nghề cào ngán, cào thiếp, nghề bổ hà, nghề đánh cá đèn ...

Nghề câu cá mực: câu cá song có ư nghĩa kinh-tế lớn. Mấy năm vừa qua, nghề câu cá song phát-triển mạnh ở vùng biển Cô Tô. Có đêm một người thu được vài triệu đồng, trái lại câu cáy ở ven biển, ở những băi sú vẹt thường là để giả trí, đi câu cho vui và kết hợp kiếm bát canh cho khoẻ người. Câu cáy không cần mồi, chỉ cần 2 -3 lưỡi câu buộc chụm lại, thả xuống cáy chạy ra ngậm càng vào, thế là nhấc vội lên, không cần phải gỡ mà cáy tự nhả càng ra rơi vào giỏ đựng.

 
Nghề chài: Nghề chài bằng thuyền nhỏ, không ra khơi xa, chỉ ở trong vịnh, ven bờ. Có khi cả gia đ́nh sống trên một chiếc thuyền nhỏ. Cảnh thường gặp và gây ấn tượng là cảnh phơi lưới thường thấy ở Lán Bè thành phố Hạ Long mà các hoạ sĩ đă thể-hiện trong các bức tranh của ḿnh.

Nghề đào sái sùng: Người đi đào sái sùng lăm lăm trong tay cái mai, cái d́u, mắt quan sát về phía trước, bước chân đi nhẹ nhàng. Khi phát hiện có sái sùng th́ họ hết sức nhanh nhẹn dùng mai lao xuống cát hất vội con sái sùng lên, nhặt đưa ngay vào giỏ. Nếu đẩy mạnh và chậm một chút th́ sái sùng luồn sâu vào trong cát rất khó bắt. Nh́n ngắm cảnh đào bắt sái sùng có cảm tưởng như thấy người nghệ sĩ đang biểu diễn trên băi cát rất điệu nghệ, cũng rất gây ấn tượng.

Nghề đánh bắt cá đèn: Cách đây vài chục năm trên vùng biển Quảng Ninh c̣n rất phổ biến nghề đánh cá đèn. Khi đèn thắp sáng trong đêm th́ cá đua nhau t́m đến và người ta bủa lưới bắt cá. Du khách có dịp đi cùng thuyền đánh cá đèn tha hồ mà ngắm nh́n tôm cá tung tăng bơi lội dưới ánh đèn. Người ngư-dân vớt mực đem nướng trên phễu đèn rồi chủ khách cùng ăn. Mực tươi nướng thơm phúc, ngọt lịm, nhấm nháp với một vài chén rượu, du khách như cảm thấy cảnh thần tiên trên mặt biển. Mặt biển trong đêm rực sáng như một thành phố nổi thật là ngoạn mục nên thơ.

  

6.15 - Đa-dạng Sinh-học và Nuôi trồng thủy-sản

Nước ta có lợi thế về đa-dạng sinh-học, căn cứ để định ra đối tượng, mùa vụ và phương thức nuôi trồng thủy-sản. Chúng ta cũng có lợi thế về độ lớn và tính đa-dạng các loại h́nh mặt nước, thuận-lợi cho phát-triển nuôi thủy-sản. Xét về tiềm-năng mặt nước, trong tổng số khoảng 1,7 triệu ha mặt nước, có khoảng 619 ngh́n ha diện-tích các mặt nước lợ phân bố dọc theo bờ biển từ bắc chí nam (84.652 ha ở các tỉnh phía bắc; 39.700 ha ở khu-vực bắc miền trung,

Trong các mục tiêu cụ thể của Chương tŕnh phát-triển nuôi trồng thủy-sản đă được chuyển phê duyệt có liên-quan diện-tích đất lúa có một số chỉ tiêu sau đây:

- Nuôi tôm sú 260,000 ha (trong đó có 60 ngh́n ha nuôi công-nghiệp... 100 ngh́n ha nuôi sinh-thái, luân canh, xen canh) để đạt sản-lượng 360,000 tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1.400 triệu USD.

- Nuôi tôm càng xanh 32,000 ha, đạt sản-lượng 60 ngh́n tấn.

- Nuôi thủy-sản ruộng trũng 220 ngh́n ha, đạt sản-lượng 170 ngh́n tấn, chủ-yếu là các loại cá đồng hiện hữu ở các khu-vực.

Như vậy, việc quy hoạch cần-thiết cho các vùng đất có thể chuyển đổi đă có các định hướng rơ ràng theo đối tượng nuôi.

 

H́nh 155. Thống-kê cho biết mức-độ nuôi trồng thủy-sản gia-tăng đáng kể tại Việt-Nam

 

6.16 - Nghề mới: Nuôi trồng Thủy Hải-sản

Trên một số đảo, c̣n có hoạt-động nuôi trồng thủy hải-sản, như các đầm nuôi tôm, cua ở Cát Hải, huyện Vân Đồn, Cô Tô, Cái Bầu và một số đảo ở miền Trung. Cũng như ở các băi trên đất liền, công việc nuôi trồng c̣n mang nặng tính quảng canh, nhiều nhất là bán thâm canh. Do đó về mặt này c̣n phải đầu tư nhiều hơn nữa do năng suất chỉ mới đạt khoảng 1/10-1/8 năng suất trong khu-vực Đông Nam Á. 

Nuôi trồng hải sản phát triển kém hơn nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt và nước lợ. Nuôi cá lồng, ví dụ, chỉ vừa mới được giới thiệu ở Việt Nam thông qua công ty liên doanh Hồng Kông - Việt Nam. 4 địa điểm, Quảng Ninh, Nha Trang, Đà Nẵng và Sơn Trà, đă được chọn nơi mà cá biển, phần lớn là Seranidae (groupers), Lutjanid (Cá hồng) và Labridae (wrases) được nuôi trong lồng ở những vùng nước kín. Cá bột của những loài cá giá trị cao này được bắt từ thiên nhiên, nuôi trong lồng, và xuất khẩu sang Hồng Kông khi to đủ cỡ có thể bán trên thị trường. Một vài tổ chức quốc tế cũng tham gia vào việc phát triển nuôi cá lồng ở một số tỉnh. Những đối tượng khác hải sản nuôi trồng là ṣ (Ostrea rivularis) và trai ngọc, Pteria martensii ở miền Bắc và Pinctada maxima ở miền Nam.

 

H́nh 156. Cá Hồng là loại thũy-sản rất dễ nuôi trồng

 

 

 

H́nh 157. Cá Mập,c̣n gọi là cá  Nhám (Shark)

 

 

H́nh 158. Cá Ngừ, Yellowfin Tuna 

 

 

H́nh 159. Tôm Hùm

H́nh 160.  Carangidae: Cá Sọc Mướp, cá Ṣng, Cá Nục

 

 

H́nh 161. CáThieu

 

H́nh 162. Cá Chuồn, Flying Fish

 

 

H́nh 163. Cá Thu

 

H́nh 164. Cá Mú- Serranidae

 

H́nh 165. Cá Mối,  Thiều, Catfish

 

 

 

H́nh 166. Cá Gộc 7 râu,  Cá Chét Tassel Fish

  

H́nh 167. Cá Gộc, Threadfin

 

H́nh 168. Bảng thống-kê hải-sản này cho thấy kết-quả hoạt-động đánh cá của những tỉnh quanh Vịnh Bắc-Việt rất yếu kém.

 

năm 2001, toàn ngành thủy sản khai-thác được gần 500.000 tấn thủy sản; kim ngạch xuất khẩu đạt 289 triệu USD, tăng trên 36% so với cùng kỳ năm ngoái, Bộ thủy sản cho biết như vậy. Trong đó, thủy sản thu hoạch từ khai-thác tự nhiên đạt trên 328.000 tấn và thủy sản thu hoạch từ nuôi trồng gần 168.000 tấn.

H́nh 169. H́nh Cá trong rạn San-hô

 

6.17 - Tài-nguyên cho các Nghề Thủ Công Việt Nam[225]

            Từ những vật-liệu sẵn có như đất, gỗ, đá, tre, nứa, sơn,  trai, xà cừ, nghêu, ṣ...; với bàn tay khéo léo, người Việt-Nam đă tạo ra nhiều sản-phẩm thủ-công.

1.- Đồ Gốm: Nghề đồ gốm ở Việt Nam có từ lâu lắm rồi. Ở miền Bắc th́ có gốm bát Tràng (HàNội), gốm Đông Triều (Quảng Ninh), gốm Thỉ Hà (Bắc Ninh)... C̣n ở miền Nam th́ có gốm Saigon, gốm B́nh Dương, gốm Biên Ḥa (Đồng Nai) vv..vv...

Ngày nay sản phẩm Việt Nam rất phong phú, từ những vật nhỏ như: lọ đựng tăm, gạt tàn thuốc lá... c̣n những săn phẩm cở trung b́nh như: lọ hoa, tượng Phật, Thiếu nữ, ấm trà, cà phể, bát dĩa, tô, chậu cảnh... đến những săn phẩm lớn như: lọ độc b́nh, đôn, voi v.v...

Những màu đen thường dùng trong đồ gốm là màu đen, men ngọc, men da lươn, men vàng trâm, men chảy giọt. Họa tiết trên sản phẩm được gắn liền với những nét quen thuộc trong đời sống như chú bé mục đồng thổi sáo trên lưng trâu, thiếu nữ hái hoa, cây đa cổng làng, chùa, hồ sen, thiếu nữ găy đàn... Các nước Âu Châu hiện nay rất thích hàng gốm VN.

2.- Hàng mây tre: Cây tre, cây song và cây mây là những loại cây rất nhiều trong rừng Việt Nam. Có quanh năm suốt tháng. Loại này là một sản phẩm vô tận cho những thợ thủ công làm mây tre. Việt Nam về mây tre. Hàng mây tre có mặt từ thời Pháp thuộc, trong triển lăm chợ phiên Pháp quốc tại Paris năm 1931, cả dân thành Paris rất nghạc nhiên về sự khéo tay làm lấy của thợ mậy tre. Hiện nay có đến hơn 200 mặt hàng thuộc dạng mây tre... Khách thích những loại như: dĩa bày trái cây, lẵng hoa, bát hoa, làn, giỏ, nơm ná, lọ hoa, chụp đèn, bộ salon, tủ sách v.v... Ưu điểm của mây tre là nhẹ, gon và hàng không bị mọt

3.- Hàng sơn mài: Trên thế giới có nhiều nước làm son mài, có nhiều nước nghề sơn mài có trước nước ta, nhưng chỉ c̣n Việt Nam là hàng son mài c̣n có mặt. Nhiều núi cao có nhiều loại cây la mà sơn mài, nhưng vùng Phú Thọ th́ sơn mài dẻo và bền nhất. Nhựa cây sơn tại vùng núi Phú Thọ tốt hơn nhựa cây sơn các nơi khác.

Vào thế kỹ 18 ở Thăng Long Hà Nội, đă có phường Nam Ngư chuyên làm sơn mài. Ban đầu chỉ có 4 màu: đen, đỏ, vàng, nâu. Nay nhờ khoa học tiến bộ nên có nhiều loại sơn nhập vào dùng màu rất tốt đẹp hơn màu xưa cũ.

Các hàng sơn mài như: tranh treo tường, lọ hoa, hộp, hộp đựng nữ trang, hộp đựng thuốc lá, khay, bàn cờ, bức b́nh phong chắn gió, những tranh treo tường rất lớn, nhỏ có...

4.- Nghề Khảm trai, xà cừ: Mănh vỏ mặt trong của trai, xà cừ khi ánh sáng chiếu vào sẽ long lanh nhiều màu sắc rất đẹp, có khi nổi màu ngũ sắc lung linh. Người thợ khảm dùng vỏ trai, vỏ hến, ốc biển để gắn khảm lên mặt đồ vật. Công việc làm này khá tỉ mỉ, nhẫn nại, như vẽ mẫu tranh, mài, cưa, đục mănh, khảm, gắn lên tranh rồi mài sát mặt, đánh bóng. Sau đó bức tranh hiện lên rơ những đồ vật với nhiếu màu sắc lung linh. Từ chiếc hộp gỗ, cái khay, bàn cờ, mặt bàn, thành ghế, cánh tủ, b́nh phong, tranh treo tường v.v... bằng gỗ đều có thể khảm trai.

Với chiều dài bờ biển phong phú trai, xà cừ, nghêu, ṣ... nên ngành này không sợ thiếu vật liệu khảm, cẩn.

5.- Chạm khắc Đá: Từ những khối đá cẩm thạch, người thợ chạm có thể khắc đá thành những h́nh ảnh dễ thương, quen thuộc. Như tượng Phật, tượng thú vật, ṿng tay, gạt tàn thuốc lá, hoa l và hoa quả, thú vật nhà như chim, mèo, công... Dưới chân núi ngũ hành sơn (Đà Nẵng) là các làng Quan Khái, Ḥa Khê, dân làng có tay nghề truyền đời hơn nơi khác.

6.- Hàng Thêu Ren: Tại Saigon chung ta ít thấy có nguyên con con đường, phố dành cho hàng thêu Ren. Nhưng tại phố Hà Nội, th́ có nguyên một hàng thêu Ren, gần phố hàng Trống giáp với phố Lê thái Tổ.

Các loại hàng thêu rất đa đạng, mẫu thêu cáng ngày càng phong phú cầu kỳ như: Hoa sen, hoa cúc, hoa thược dược, rồng phượng, cây tùng, chim hạc, bông sen, đôi chim uyên ương, phong cảnh, chân dung, núi đồi ao hồ v.v... Có loại dành thêu trên áo sơ mi mà thôi, có loại thêu trên tà áo dài của thiếu nữ, có loại thêu áo gối cho cặp tân giai nhân tân hôn, có loại thêu khăn phủ giường, thêu áo kimono, thêu khăn mù-soa... đôi khi nhiều thọ khéo tay người tay thêu những bức tranh treo tường. Có bức tranh lồng đến 20 loại chỉ màu.

Nhưng hiện nay v́ hàng Trung Quốc nhập vào ồ ạt, nên ngành nghề này lần lần lui bước. Những bức tranh thêu của thợ Trung Quốc đem vào Việt Nam th́ lấn át hẳn v́ sự tinh vi và đẹp của nó, như cảnh núi non sông hồ, rồi nhiều con chim bay lượn trên cành cây đào, hay buơm bướm chập chờn bay.

Với sự chật hẹp của căn nhà, với sự bụi bặm của phố thị, nên ngành thêu giờ đây phải lui gót trước những hàng vẽ rồi nhuộm màu lên, rất lâu phai và dễ xấy giặt nữa.

7.-Hàng Vàng Bạc: Từ Thế kỷ thứ II, người Việt Nam đă biết dùng vàng bạc để làm đồ trang sức. Trong nghề vàng, bạc có ba nghề khác nhau nhưng liên quan rất mật thiết với nhau:

-Nghề chạm vàng bạc: Chạm trổ những h́nh vẽ hoa văn trên nét vàng, đồng

-Nghề đậu: nghĩa là kéo vàng thành sợi nhỏ, rồi uốn ghép lại thành nhựng dạng đẹp mắt, như hoa lá chim muông, gấn lên trên các món trang sức.

-Nghề Trơn: Chuyên đánh vàng, bạc thành những đồ tranh sức mà không cần chạm trỗ như 2 phần trên kia.

Các mặt hàng từ vàng, bạc rất đa dạng: Nhẫn, ṿng dây chuyền, hoa tai, bao bọc những ly tách đi xuất khẩu các nước ngoài. Tại HàNội vẫn c̣n phố hàng vàng, bạc. Phố này từ ngày xưa chuyên chế tác các kiểu và là nơi mua đi bán lại những món hàng của các cô thiếu nữ hay các cụ già lớn tuổi...

8.- Đồ gỗ Mỹ Nghệ: Nghề làm đồ gỗ Mỹ nghệ đă có từ Việt Nam trên hàng trăm nam nay hay hơn nữa, tay nghề đa số khá cao có thể cự nỗi những hàng từ Trung quốc vào. Sau một thời gian bán yếu, nay nghành nghề này lại rầm rộ kéo nhau xuất khẩu đi nước ngoài như: Phi Châu, Âu Châu... Các mặt hàng chủ yếu là tượng gỗ, bàn ghế, tủ sập giường v.v...

Tại Saigon th́ có nhiều công ty rất lớn, có nơi có trên 300 nhân công chuyên lo đồ gỗ Mỹ nghệ lư do nước Việt có rất ngút ngàn rừng núi, gỗ nhiều loại rất quư. Nhưng hiện nay chánh quyền CSVN chưa có một pháp lư ngăn cấm những thợ phá cây lấy gỗ, có nhiều cây cần đến 100 năm mới cho ra gỗ tốt, nay chỉ cần vài nhát búa của thợ rừng là loại cây quư này sẽ lần lần tuyệt diệt.

.

 

 H́nh 170. Những bức tranh mỹ-thuật khảm xà-cừ

 

6.18 - Tài-nguyên Điện-Năng

Đă có nhiều kế hoạch về năng-lượng nhưng việc sản xuất điện vẫn c̣n trong tranh căi. Việc xây dựng và thúc đẩy việc thay đổi công nghệ năng lượng.phải bao gồm những phương thức hữu hiệu hơn việc sử dụng gỗ và than hầm và những nguồn thay thế. Tiềm năng to lớn của tài nguyên thuỷ điện là sự thay thế hiển nhiên.

Tuy vậy, những nhà máy thuỷ điện rộng lớn có thể có những tác động to lớn đến tính đa dạng sinh học tại địa phương, làm ngập úng những sinh cảnh đất thấp quan trọng, những người dân địa phương phải chuyển sang định cư ở nơi khác sẽ mang thêm những tác động đến nơi ở mới, phá vỡ những đường ṃn di trú truyền thống của nhiều loài thú lớn, thay đổi cơ cấu ḍng chảy và chu kỳ sông của những loài cá sở tại . Mặc dầu vậy, có một số phương tiện tích cực. Hồ chắn chứa nước tạo nên những sinh cảnh mới cho cá và chim đất ướt và có tầm quan trọng về bảo vệ lưu vực có rừng trở nên một ưu tiên cao hơn để cấp vốn.

Dầu và khí đốt trên thêm biển Đông sẽ trở nên nguồn năng lượng ngày càng quan trọng. Việc khai thác chúng cũng mang đến mối đe doạ lớn v́ dầu ṛ rỉ và ô nhiễm mà có thể phá huỷ cả hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh thái biển và ven biển.[226]

           

6.19 - Muối,  Tài-nguyên không Khai-thác đủ

Nước ta có bờ biển dài, có nhiều ruộng muối, Nhưng muối lại bị thiếu và cần nhập-cảng

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các doanh nghiệp hóa chất - công nghiệp thực phẩm nước ta cần nhập khẩu khoảng 200.000 tấn muối hàng năm. Theo các chuyên gia, có 2 yếu tố quan trọng khiến lượng muối nhập khẩu tăng mạnh trong những năm qua là chất lượng và giá thành. Về chất lượng, muối công nghiệp Việt Nam có khả năng đáp ứng yêu cầu về hàm lượng NaCl, nhưng vấn đề hàm lượng tạp chất th́ đến nay vẫn chưa xử lư được

 Về giá thành, do trong những năm gần đây, diện tích đồng muối của Việt Nam ngày càng giảm nên sản lượng cũng giảm theo. Đặc biệt, vào những năm thời tiết thất thường, sản lượng của các đồng muối công nghiệp không đạt kế hoạch dẫn đến giá thành tăng cao. Từ đầu năm đến nay, b́nh quân giá muối tại miền Bắc là 600-650 đồng/kg, miền Trung 650-750 đồng/kg, miền Nam 750-800 đồng/kg. Trong khi đó, giá muối nhập khẩu chỉ từ 22 - 24 USD/tấn, cộng cả các loại chi phí khác th́ giá bán tại thị trường trong nước vẫn chỉ vào khoảng 400 - 450 đồng/kg.

Số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, t́nh h́nh sản xuất muối của nước ta từ năm 1990 đến nay khá bất ổn định. Nếu như năm 1990, sản lượng muối của cả nước đạt 450.000 tấn và đến năm 1998 đă tăng lên 800.000 tấn th́ sang năm 2000, con số này đă giảm xuống c̣n 480.000 tấn. Năm nay, dự kiến sản lượng muối của cả nước đạt khoảng dưới 600.000 tấn.

Trong khi đó, nhu cầu về muối lại ngày càng tăng, ước tính năm nay sẽ vào khoảng 730.000 tấn. Đặc biệt, nhu cầu về muối công nghiệp chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế sẽ c̣n tăng mạnh trong giai đoạn 2005-2010 do có thêm các nhà máy hóa chất đi vào hoạt động. Ước tính, vào năm 2005, cả nước cần 870.000 tấn muối và năm 2010 là 1.480.000 tấn, trong đó lượng muối công nghiệp tương ứng chiếm trên 46% vào năm 2005 và 87% vào năm 2010.[227]

 

6.20 - Lợi-tức Cá-nhân Cao Thấp, Xưa và Nay

 

H́nh 171. Thu-nhập mỗi đầu người tại các tỉnh Miền Bắc vào năm 1993. Lưu-ư rằng lợi-tức cá-nhân cao nhất lủc xưa tại các tỉnh trồng lúa. Ngày nay các tỉnh Thái-B́nh, Nam-Định đă lùi lại sau các tỉnh công-nghiệp như Quảng-Ninh, Bắc Thái

 

Nuôi Ong thứ nh́ Á-Châu

Theo Ông Đinh Quyết Tâm - Chủ tịch Ủy ban Kinh tế nuôi ong của Hội Nuôi ong thế-giới, Việt-Nam vừa đạt mức kỷ-lục về xuất-khẩu mật ong. Từ đầu năm đến nay, Việt-Nam đă xuất khẩu 12.000 tấn mật ong, trị giá hơn 15 triệu USD, đưa Việt Nam trở thành nước đứng hàng thứ hai ở châu Á (sau Trung-Quốc) Báo Tuổi Trẻ tháng7-2002


Chương 7

Bảo-Tồn

 

7.1 – Môi-trường cho ta Cơ sở để Sống

"Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên."[228]

Môi trường là tất cả những ǵ có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển. Theo chức năng môi-trường được chia thành các loại như Môi-trường Thiên-nhiên (hay tự-nhiên), Môi-trường Nhân-tạo.  xă hội,      

Môi trường có các chức năng cơ bản sau:

* Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật.

* Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người.

* Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của ḿnh.

* Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật trên trái đất.

* Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.

 Như vậy, con người bảo tồn môi-trường để tồn-tại và phát-triển.

 

7.2 - Kế-hoạch Bảo-tồn Bờ Biển và Biển

Ư thức được tầm quan-trọng phải làm, Việt-Nam đă thảo kế hoạch bảo tồn biển và bờ biển đă được soạn thảo. Bản thảo này thảo luận về danh sách 30 khu bảo tồn biển và bờ biển.

Những cơ-quan bảo-trợ quốc-tế như Ngân-hàng Phát-triển Châu Á (Asian Development Bank, ADB) Hiệp-hội Chim Chóc Quốc-Tế (BirdLife International) cùng đề-nghị Việt-Nam phải mở rộng thêm kế-hoạch.

            Trong các cuộc khảo sát do BirdLife thực hiện tại những vùng chim đặc hữu vào đầu những năm 1990 đă tái phát hiện được một số loài phân bố hẹp mà những thông tin về sự xuất hiện của chúng đă không được biết đến từ những năm 50 của thế kỷ này ví dụ như: Mi Langbian, Khớu mun và Gà lôi lam mào đen. Sự tái phát hiện một số loài đă được thực hiện trong quá tŕnh khảo sát ở các vùng chim đặc hữu. Các cuộc khảo sát này cũng cho thấy rằng những sinh cảnh tự nhiên của các sinh-vật  đặc hữu (kể cả các loài chim nước và chim biển) đă và đang bị mất nhanh chóng, đ̣i hỏi phải có những hoạt động bảo tồn kịp thời ngăn chặn sự mất đi vĩnh viễn các loài vật hiếm quư cũng như những sinh cảnh tự nhiên của chúng.

H́nh 172.  Một loài chim vùng ngập nước cần được bảo tồn

 

Chiến lược bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo Việt-Nam bao gồm các nội dung và liên quan đến các lĩnh vực sau:

- Chiến lược phát triển kinh tế biển phải được xây dựng theo quan điểm sử dụng tổng hợp, hợp lư đi đôi với bảo vệ tài nguyên và môi trường biển và ven bờ. Lĩnh vực này cần được các ngành khai thác dầu khí, giao thông vận tải, thuỷ sản, lâm nghiệp, du lịch, .... thực hiện đầy đủ các yêu cầu bảo vệ môi trường trong ngành và phối hợp với nhau cùng bảo vệ môi trường liên quan đến biển, ven biển và hải đảo.

- Chiến lược thực hiện các công ước và hiệp định quốc tế và khu vực liên quan đến biển và đại dương và liên quan đến môi trường biển.

- Chiến lược quản lư môi trường biển và ven biển bao gồm phân vùng chức năng biển và ven biển, quản lư tổng hợp các hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản ven biển, thành lập hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển, phát triển và cải thiện sinh kế cho những cộng đồng duyên hải, pḥng ngừa và giảm thiểu tác hại của thiên tai ven biển, trớc hết là băo, lụt, xói lở và nước dâng đặc biệt là ở các tỉnh miền Trung và tăng cường năng lực quản lư môi trường biển và ven biển[229].

 

7.3 - Nhu-cầu cấp-bách: Xây dựng thật nhanh các khu bảo tồn

Các nhà khoa học đã duyệt xét nhiều cách điều-hành khác nhau và thống nhất 6 kiểu đ́ển-hình cho những Khu Bảo-tồn Biển (Marine Protected Area - MPA), bao gồm: khu dự trữ tự nhiên, vườn quốc gia, kỳ quan thiên nhiên, khu bảo tồn loài, khu bảo tồn cảnh quan, khu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Sau khi khảo sát tại chỗ, Viện Hải dương học Việt Nam đã xác định 16 vùng biển nước ta đủ tiêu chuẩn xây dựng khu bảo tồn biển, trong đó có Cô Tô, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, phá Tam Giang - Cầu Hai, Hải Vân - Sơn Trà, Cù lao Chàm, Lý Sơn, Hòn Mun - Bích Đầm, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, Trường Sa...

Lược-duyệt sự bảo-toàn biển và duyên-hải Việt-Nam, người ta thấy khá nhiều thành-quả được thực-hiện tốt, tuy nhiên việc khởi-sự đă hơi trễ và nhịp điệu công-tác lại chậm trễ. Theo ông Nguyễn Chu Hồi, Phân viên Hải dương học Việt Nam tại Hải Phòng, một trong những giải pháp để bảo vệ bền vững tài nguyên biển của nước ta là xây dựng các khu bảo tồn biển (MPA) càng sớm càng tốt. Hiện nay, thế giới có 1,306 khu MPA, trong đó vùng biển Đông Á có 92 khu. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, nhiều vùng biển nước ta như Cát Bà, Côn Đảo, Hòn Mun và Trường Sa... là những vùng biển cần có kế hoạch bảo vệ bởi lẽ, đây là những vùng biển đặc trưng cho hệ sinh thái biển Việt Nam.[230]

 

7.4 – Liên-hệ Kinh-tế, Tài-nguyên và Bảo-tồn Thiên-Nhiên  

Xưa nay, nền kinh tế nước ta dựa nhiều vào tài nguyên thiên nhiên, và tài nguyên đang có nguy cơ suy thoái. Giá trị sản phẩm nông nghiệp c̣n chiếm tới 25% GDP, và nếu tính cả thuỷ sản và sản phẩm của các ngành công nghiệp chế biến, th́ c̣n chiếm trên 40% GDP. Cũng đáng chú ư là tỷ trọng chế biến đối với nhiều loại nông sản c̣n rất thấp so với lượng nguyên liệu hiện có, như chè th́ chỉ đạt 55%, mía đường 57%, rau quả 5%, thịt 1% v.v... Cho nên việc ǵn giữ, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách lâu dài có ư nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đối với đời sống và phúc lợi của nhân dân.

Những biến đổi khí hậu có tính toàn cầu và khu vực nhiều khi cũng làm cho t́nh trạng trầm trọng thêm[231]. Việc Bảo-tồn cần phải đặt ưu-tiên cho các dạng tài nguyên thiên nhiên này v́ nhu-cầu trước mắt về kinh-tế.  

Mức sống dân ta c̣n quá thấp, mà nghèo th́ nhu cầu khai thác các nguồn tài nguyên sẵn có trong thiên-nhiên càng đ̣i-hỏi. V́ thiếu thốn, người ta quên mất những ǵ họ đă từng trân trọng bảo-vệ cho đất nước được tươi đẹp. Một phần do nghèo đói và cũng do thiếu học, có những người sử dụng chất nổ  đánh cá, kiếm củi nơi rừng cấm vả cả “đi vệ-sinh” bậy bạ…

Nền kinh-tế kém phát-triển, thường đi kèm theo là sự kém phát-triển của khoa-học và công-nghệ, sẽ hạn chế khả-năng đầu tư nhiều cho việc bảo-vệ môi trường. Trung Quốc là nước có tiềm lực mạnh hơn nước ta nhiều, nhưng cũng mới chỉ đầu tư cho công tác môi trường cha tới 1% GDP. Theo Bộ Kế-hoạch và Đầu tư, tỷ lệ chi cho bảo-vệ môi trường ở nước ta chỉ bằng 0,10 - 0,19% GDP.

Rút kinh-nghiệm những quốc-gia tiền-tiến, Việt-Nam không thể để ḿnh lọt vào cái ṿng lẩn-quẩn: v́ dân nghèo nên môi-trường suy-thoái - khi môi-trường suy-thoái, dân lại nghèo hơn. Tỷ lệ chi-phí cho việc bảo-vệ môi trường ở nước ta hiện quá thấp, cần phải lập-tức gia-tăng lên vài chục lần. để hy-vọng thoát ra khỏi cảnh ngặt nghèo môi-sinh.

Kinh nghiệm ở những nước phát triển cũng cho thấy nhiều việc phải làm ngay và làm cho đúng không nên v́ ngân-quỹ eo hẹp mà để tai-họa về sau. Việc kiểm tra chất thải độc hại  gây tốn kém thật, nhưng việc dọn sạch "các lỗi lầm của quá khứ" c̣n tốn tiền của và thời gian hơn nhiều, có khi gấp từ 10 đến100 lần cao hơn  

 

7.5 – Ô-nhiễm Môi-trường Gây Bệnh

“51,7% dân số Việt-Nam mắc bệnh do ô nhiễm môi trường”. Đó là lời cảnh báo của Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF), nhân Ngày Môi trường Thế giới 5-6-2002. Theo Trường Đại học Y Thái B́nh, 51,7% dân số Việt Nam mắc những bệnh liên quan trực tiếp do ô nhiễm môi trường, đặc biệt là các bệnh tiêu chảy và kư sinh trùng do chất lượng nước quá tồi và thiếu thiết bị vệ sinh. Chỉ có 1/3 dân số ở Việt Nam được hưởng các phương tiện vệ sinh đầy đủ. Theo báo cáo gần đây của UNICEF, WHO (Tổ chức Y tế Thế giới) và UNEP (Chương tŕnh Môi trường LHQ), 40% các bệnh do ô nhiễm môi trường đă tác động đến trẻ dưới 5 tuổi.

Cho dù con số được loan-tải có thể là chính-xác hay bị thổi phồng, bản tin trên thực-sự là một đèn báo-động đỏ nguy-cấp. Nói chung t́nh-trạng vệ-sinh miền Nam vốn xưa nay khá hơn miền Bắc và khu-vực đông người đáng lo ngai nhất lại nằm quanh vịnh Bắc-Việt.

Đă có luật bảo-vệ môi-trường, chống ô-nhiễm. Người dân cũng được giáo-dục về dinh-dưỡng, về vệ-sinh nhưng không có khả-năng thực-hành triệt để. Thông thường luật c̣n bị thay đổi hay “bẻ cong” đi bởi t́nh-trạng địa phương. Các phiên toà xử những vụ vi-phạm nhỏ-nhặt hay bị bỏ qua, đến như tội “chặt cây lấy củi gây cháy rừng” cũng thường bị buông lơi v́ nghèo đói. Điều này làm cho luật kém hiệu lực và v́ thế cần đề-xuất các biện-pháp khác hợp-lư. Thí-dụ như dân không nộp được phạt th́ phải bị bắt đi lao động công ích cho các dự án môi trường thay cho h́nh phạt.

 

7.6 - Hậu-quả Ô-nhiễm Môi-trường Biển

Những hậu-quả đang nh́n thấy về sự ô-nhiễm biển ở Việt-Nam hiện nay như sau:

1- Cạn kiệt các nguồn tôm giống và các đàn cá gần bờ

2- Mất tính đa dạng sinh học do ô nhiễm biển và phá huỷ môi trường sống/nơi cư trú, như rừng ngập mặn v.v.

3- Phá huỷ san hô v́ việc sử dụng thuốc nổ và lấy san hô bừa băi:

4- Acid hoá đất do phát quang rừng (trên các vùng đất phèn), phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản;

5- Ô nhiễm biển do dầu bởi vận tải biển, các hoạt động khai thác dầu ngoài khơi và sự cố tràn dầu;

6- Ô nhiễm do nước thải từ cống rănh, sử dụng hoá chất nông nghiệp và ngành công nghiệp không được kiểm-soát.

Hậu-quả ngay trước mắt là số lượng cá đánh bắt được đă suy-giảm nhiều trong những năm cuối thế-kỷ 20. Trung-b́nh một ngư-thuyền Biển Đông thu-hoạch được: 16.7 tấn năm 1996 , được 15.3 tấn năm 1997, được 13.8 tấn năm 1998. Năm 1999 số lượng hải-sản đó vẫn c̣n xuống nữa.

Thêm vào nguyên-nhân nhân-tạo, các thiên tai như băo, lũ và xâm nhập mặn có tác động lớn tới môi trường biển và đới bờ. Các hoạt động của thiên tai có thể trầm trọng thêm nếu nó lại bị cộng-hưởng bởi những hoạt động vô ư-thức của con người.

Đặc-biệt Vịnh Bắc-Việt có nhiều nguy-cơ cạn-kiệt về hải-sản và ô-nhiễm nhanh hơn các vùng biển Việt-Nam khác, v́ biển này hẹp hơn, kín hơn, đông người, nhiều cơ xưởng kỹ-nghệ hơn. Việc quản-lư cũng khó khăn hơn trong công-tác bảo-tồn nếu không có sự cộng-tác mật-thiết của Trung-Hoa.

 

7.7 - Nhu-cầu Mới làm tăng Sự Suy-thoái

Ta biết rằng Vịnh Bắc-Việt không có nhiều san-hô, vậy mà gần một nửa khối-lượng san-hô vùng này lại đă biến mất kể từ thập-niên 1940. Trong thời-gian gần đây, đà diệt-vong này c̣n gia-tăng khi người dân dùng đến chất nổ để khai-thác san-hô. V́ nhu-cầu tiêu-thụ san-hô mới phát-sinh như dùng san-hô chế-tạo thành vật-liệu xây cất. Khi ngành du-lịch phát-triển, người ta bán được rất nhiều san-hô làm quá kỷ-niệm.

Khả-năng đánh cá mới cũng làm thay đổi t́nh-trạng  Sau chiến-tranh từ 1975, người dân dùng số lượng chất nổ dư thừa dễ kiếm để đánh ḿn. Cá thu-lượm không được bao nhiêu mà họ đă phá hủy các hệ sinh thái biển.

Do ư thức của người dân chưa cao nên họ đă đánh bắt thủy sản bằng mọi cách có thể, phá hủy các hệ sinh thái biển và khiến nhiều loài thủy sinh giảm số lượng nghiêm trọng. Mặt khác, nhịp độ tăng trưởng du lịch biển ngày càng tăng nhưng thiếu sự kiểm soát, chẳng hạn việc khai thác san hô, rùa, đồi mồi để làm hàng thủ công mỹ nghệ bán cho khách, cũng là nguyên nhân dẫn đến việc thất thoát tài nguyên biển nhanh chóng.

Trong những thập-niên 1960, 1970, 1980; mấy khi có tầu cá lớn đánh cào “hủy-diệt”. Nguy-hại hơn, chỉ hai năm nay những “Thần Chết” trên “Tàu Pha Xúc” chợt hiện ra. Mỗi tàu như vậy trang bị một hoặc hai máy phát điện công suất 15-20 kW và một dàn đèn 5-10 chiếc, công suất 1,000-2,000 W. Khi đèn chiếu xuống biển thì không chỉ cá cơm mà đủ mọi loài nhỏ như nục, de, trích cũng nổ mắt chết theo.[232] Các loài hải-sản c̣n trứng nước cũng diệt-vong.

 

 

H́nh 173. Nếu không theo đúng phương-thức và luật-pháp, lưới cào là một thứ “đánh cá hủy-diệt”

 

H́nh 174. Tem Thơ Bảo-Vệ Chim Quư Hiếm

 

7.8 - Các Nguồn Ô-nhiễm Chính

Theo Hứa Chiến Thắng, nguồn ô-nhiễm chính tác-hại Biển Đông trong tương-lai sẽ có thể là nạn tràn dầu ra biển

Khoảng 200 triệu tấn dầu được vận chuyển hàng năm qua các vùng biển ngoài khơi Việt Nam từ Trung Đông tới Nhật Bản và Triều Tiên. Các hoạt động thăm ḍ và khai thác dầu khí ngoài khơi Việt Nam đang tăng lên hàng năm.

Vịnh Bắc-Việt và cả Biển Đông đă trở thành một trong các địa điểm thăm ḍ và khai thác dầu khí nhộn nhịp nhất. Các vùng có các hoạt động dầu khí là vùng biển Việt Nam, vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan và Quần đảo Trường Sa. Các hoạt động thông thường kèm theo việc khai thác và vận chuyển dầu gây ra t́nh trạng ô nhiễm nghiêm trọng do dầu. Ví dụ các tầu trở dầu làm thoát ra biển tới 0,7% tải trọng của chúng trong quá tŕnh vận chuyển thông thường. Sóng biển và gió đều có chiều hướng đưa lượng dầu thoát ra tấp vào bờ biển Việt Nam.

Các vụ tràn dầu xẩy ra v́ nhiều nguyên nhân, trong đó có gia tăng mật độ đi lại, thiếu sự kiểm soát giao thông và các biện pháp an toàn không phù hợp trên một số tầu chở dầu. Các vụ tràn dầu cũng có thể xảy ra do việc vệ sinh tầu chở dầu bằng nước biển. Thêm vào đó, c̣n có lượng dầu tràn nhất định xẩy ra trong quá tŕnh khai thác và chế biến dầu tại các dàn khoan và cơ sở ven biển.

 

H́nh 175. Hăy cứu lấy Đại-Dương

 

7.9 - Nước, Gió và nạn Dầu loang trong Vịnh Bắc-Việt

Khi dàn khoan hoạt-động, các tàu chuyên chở dầu đi lại nhiều hơn và những ống dẫn dầu khí vào bờ khởi-sự; đây cũng là lúc người ta nghĩ đến những tai-nạn dầu loang và sự hiểu-biết về hải-lưu và gió biển càng cần-thiết hơn. Các kế-hoạch pḥng-tai bao gồm nhiều giả-thuyết kèm các biện-pháp ứng-phó. Nước trôi ra sao cùng gió thổi thế nào cần được tính-toán sẵn sàng.

Vị-trí toàn-thể nước Việt-nam nằm dưới gió Biển Đông. Gần như quanh năm, gió thổi về phía bờ biển nước ta. Nếu có tai-nạn tràn dầu, sự tác-hại trên môi-sinh Việt-Nam sẽ rất lớn.

Các phỏng-định sau đây đặt ra với giả-thuyết vài triệu gallons dầu thô, v́ tai-nạn hay lầm-lỗi kỹ-thuật lúc khai-thác hay chuyên-chở, bị thất-thoát ra ngoài biển.

Chừng 24% số dầu đó sẽ bay hơi hay tan-biến sau 2 ngày, 42% sau 5 ngày, 45% sau 8 ngày. Bách-phân tiêu-tán này đạt đến tối-đa là 48% qua 14 ngày. Sau đó thời-tiết không c̣n ảnh-hưởng bao nhiêu và số dầu c̣n lại sẽ nằm vật vờ trôi nổi trên mặt biển. Phải qua rất nhiều thời-gian để dầu loang tự nó phân-hóa qua những phản-ứng thoái-hóa sinh-học (Biological Degradation), oxide hóa quang-năng (photo-oxidation) mà từ từ tan-biến. Khi dầu thoát ra, v́ nhẹ nên nổi và nước gió làm dầu trôi đi trên mặt biển.

Phần nặng hay chất cặn bă của dầu thường không độc-hại bằng phần lỏng của nó. Chim chóc, cua cá, cây cối... tiếp-xúc với dầu hay nằm trong lớp dầu bao-phủ sẽ bị chết hại rất nhiều. Nếu không được làm sạch sẽ đúng cách, t́nh-trạng môi-sinh trong vùng bị dầu loang chỉ trở lại b́nh-thường sau nhiều năm hay nhiều chục năm.

Theo tài-liệu nhận được bằng nhiều nguồn tin, người ta biết rằng Việt-Nam chưa đào được một giếng dầu nào trong Vịnh Bắc-Việt. Thế nhưng Việt-Nam có thể lănh hết hậu-quả tai-hại nếu có tai-nạn tràn dầu từ các dàn khoan và ống dẫn dầu khí Trung-Hoa.   

Trung-Hoa hiện có khá nhiều dàn khoan đang hoạt-động, trước sau th́ tai nạn tràn dầu hay thất-thoát dầu khí cũng sẽ xảy ra. Khi gió mùa Đông-Bắc thổi mạnh, dầu loang sẽ trôi theo hướng Tây-Nam. C̣n vào mùa gió Đông-Nam trong Vịnh Bắc-Việt, dầu loang sẽ trôi theo hướng Tây-Bắc. V́ vị-trí nằm dưới nước, dưới gió; bờ biển Việ-Nam đương-nhiên lănh trọn hậu-quả. Sau đây là một số phỏng-định:

H́nh 176. Nếu dầu khí tràn ra từ hệ-thống dàn khoan sô (1) Biển Quảng-Ninh bị ô-nhiễm trong ṿng 1 ngày.  

 

 

Giả-thuyến vào mùa gió Đông-Bắc, nếu dầu khí bị thoát ra từ dàn khoan (1), (2), (3), (4), tất cả các dầu khí sẽ lập-tức tràn vào làm ô-nhiễm vùng duyên-hải Việt-Nam. Với sức đẩy của ḍng nước, gió và sóng, dầu trôi đi tối-thiểu là 1.5 gút:

- Quảng-Ninh bị ô-nhiễm lập-tức sau 1 ngày. Hải-pḥng Thái-B́nh sau 2, 3 ngày - Từ hệ-thống dàn khoan vị-trí (1).

- Hà-Tĩnh, Quảng-B́nh bị ô-nhiễm sau 2 ngày -  Từ hệ-thống dàn khoan vị-trí (2).

- Quảng-Trị Thừa-Thiên bị ô-nhiễm sau 3 ngày -  Từ hệ-thống dàn khoan vị-trí (3) và (4). Các tỉnh phía Nam sau 5, 6 ngày.

 

7.10 - Điển-h́nh các Vấn-đề Bảo-tồn trên Đảo

Trước năm 1979, dân số trên đảo Cát Bà tương đối thấp.Tuy nhiên, sau thời gian đó,một số lượng lớn dân đă di cư từ đất liền đến định cư trên đảo.Năm 1999, tổng dân số của đảo Cát Bà là 10,673 người.Trong đó có 70% dân số sống tại thị trấn Cát Bà, hầu hết số dân này sống bằng nghề đánh bắt thủy sản, buôn bán và dịch vụ.Dân cư sống ở các thôn xóm trong hoặc gần vườn quốc gia, chủ yếu là nông dân, khai thác rừng rất mạnh. Những loại lâm sản bị khai thác nhiều nhất là gỗ, củi đốt, mật ong, măng, các loại củ ăn được, ếch nhái và tắc kè (Nadler và Hà Thăng Long 2000 ).

Đến năm 1989, vẫn c̣n một lâm trường khai thác gỗ trên đảo Cát Bà, điều đó đă dẫn đến mất hầu hết thảm rừng ở các thung lũng và phần phía tây nam của đảo. Đến nay, việc khai thác gỗ thương mại không c̣n nữa do số cây gỗ lớn c̣n lại không nhiều. Tuy nhiên, việc khai thác ở qui mô nhỏ vẫn diễn ra v́ nhu cầu sử dụng tại chỗ. Thu mật ong thường diễn ra vào khoảng từ tháng 8 đến tháng 10. Những nhóm người đi thu mật ở liên tục trong rừng mộ vài tuần-lễ. Trong thời gian đó, họ cũng săn bắn chim thú để bổ sung cho phần ăn. Nguy-hại hơn, cách thu mật ong của người dân ở đây cũng thuờng gây ra cháy rừng.[233]

Nadler và Hà Thăng Long (2000) cho rằng săn bắn là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với các quần thể động vật ở đảo Cát Bà, và đặc biệt là với quần thể Voọc đầu trắng đặc hữu. Trong khoảng từ 1970-1986, ước tính có 500-800 con Vơọc bị giết,và trong những năm 1990s, tối thiểu có 90 cá thể bị giết hoặc bị bắt.Nadler và Hà Thăng Long(2000) đă cảnh báo nếu không cải thiện các biện pháp bải vệ,quần thể Vơọc c̣n lại này sẽ phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng trong thời gian ngắn.

Trong những năm gần đây, du lịch đă trở thành trọng tâm của nền kinh tế địa phương.Tuy nhiên, phát triển du lịch thiếu kiểm soát đă bắt đầu đe dọa đến môi trường của đảo, đây là sự thật mà các cán bộ vườn đă thừa nhận (M.Appleton pers.comm.) Trên thực tế, nếu phát triển có cân nhắc đến môi trường th́ du lịch có tiềm năng đóng góp một cách tích cực cho công tác bảo tồn ở Vườn Quốc gia Cát Bà, thông qua bổ sung thêm nguồn thu và góp phần nâng cao nhận thức môi trường.

 

7.11 - T́nh-h́nh chung về Nguy-cơ Tuyệt-chủng

Biển hay bờ nước ta nằm trong một t́nh-trạng chung về sự suy-thoái môi-trường Á-Châu. Theo Ông Đào Xuân Trường thuộc Cục Kiểm lâm: Đa dạng sinh học bị suy thoái có nghĩa là mất đi tính đa dạng di truyền và phá vỡ các quá tŕnh sinh thái. Điều này tác động đến khả năng tự tái sinh của các quần thể động thực vật với hậu quả trước mắt là sự tuyệt chủng của các quần thể địa phương và cuối cùng là sự tuyệt chủng của cả loài, ở Việt Nam, 28% loài thú, 10% loài chim và 21% loài ḅ sát và lưỡng cư đang phải đối đầu với sự tuyệt chủng. Những loài đă bị tiệt chủng ở Việt Nam như tê giác 2 sừng, heo ṿi, hươu sao.[234]

 

 

H́nh 177. Tổng-kết các loài Sinh-vật Việt-Nam có thể bị đe-dọa tiêu-diệt

 

Những sinh-vật trong t́nh-trạng báo-động, bị nguy-cấp, bị tuyệt-chủng … được ghi trong các Danh-mục Đỏ và Sách Đỏ. Lại có những tài-liệu chuyên-môn ghi danh-mục theo từng ngành, từng loại như Động-Vật, Thực-Vật, Hải-Sinh-Vật, Linh-Trưởng, Ḅ sát v.v…hay từng vùng như Á-Châu, Đông-Á, Việt-Nam v.v…

Tài-liệu căn-bản nhất cho tiếng Việt-Nam là cuốn “Sách đỏ Việt Nam” do Nhà Xuất Bản  Khoa-Học &Kỹ-Thuật, Hà Nội, phát-hành 1992. Sách được tái-bản năm 1996. Một số chi-tiết nữa đang được nhật-tu, hy-vọng Cuốn Sách Đỏ đầy-đủ và mới nhất sẽ được xuất-bản nay mai.

Để tiện việc tham-khảo tên những Sinh-vật Việt-Nam có nguy-cơ bị tiêu-diệt, chúng tôi sao chép trong Phụ-Lục 1- “Danh mục thực-vật, động-vật hoang dă quư hiếm” Việt-Nam do Chính phủ ban-hành kèm theo Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2002

 

7.12 - Cá Nước Ngọt và Tiếng Chuông Báo-động

            Từ đời này sang đời khác, người dân đánh tôm bắt cá để ăn. Nay nghe nói chuyên tôm cá có thể bị tuyệt-chủng, ít người tin.

Việt-Nam có chừng 2,470 loài trong 19,000 loài cá trên thế-giới, tỷ lệ đa-dạng sinh-học thế-giới = 13 %. Tính đặc hữu của cá Việt Nam ở mức cao. Riêng cá nước ngọt, tới 60 loài đặc hữu đă được xác định, hầu hết ở các sông miền Bắc. Một số lớn các loài đặc hữu ở sông Mê Kông chung với các nước láng giềng.

Cá nước ngọt là tên gọi chung để chỉ các loài cá sống ở nước ngọt (sông, suối, ao, đầm, hồ, ruộng), chủ yếu thuộc các họ cá xương, là nguồn thực phẩm quan trọng nhất là cho cư dân bản địa. Những năm gần đây với nền công nghiệp phát triển, nhiều nguồn chất thải gây ô nhiễm môi trường, trong đó môi trường nước ngọt bị ô nhiễm và dần cạn kiệt. Hơn nữa, việc đánh bắt cá bằng thuốc nổ, bằng điện... mang tính huỷ diệt của con người, dẫn đến một số loài cá nước ngọt gặp nguy cơ tuyệt chủng. Cùng với thế giới, Việt Nam đă và đang nỗ lực ngăn chặn việc phá hoại môi trường bằng nhiều h́nh thức, biện pháp nhằm bảo vệ môi trường trong sạch, bền vững.

Tổng cục Bưu điện phát hành bộ tem "Cá nước ngọt cần bảo vệ" giới thiệu một số loài cá nước ngọt sống ở sông, suối, ao, hồ của Việt Nam hiện cơ nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo vệ. Đây là loài cá thuộc họ cá xương, có loài cá vẩy và có loài da trần. Chúng tuy cùng ở trong thuỷ-vực, nhưng sống ở các tầng nước khác nhau tuỳ theo mồi ăn ở tầng mặt, tầng giữa và tầng đáy. H́nh dáng cá nước ngọt cũng đa dạng, đa phần là h́nh thoi và có loại lại dài như con rắn.

           

 

H́nh 178. Cá nước ngọt cần bảo vệ

 

 

Việc phát hành bộ tem như tiếng chuông báo động, sự cảnh tỉnh những con ngời vô ư thức, vô trách nhiệm trong việc bảo vệ một nguồn lợi thuỷ sản của Việt Nam, đồng thời góp chung tiếng nói với thế giới để bảo vệ môi trường chung.

Mẫu 6-1, 400đ : Cá Măng rổ - Toxotes microlepis Giinther

Mẫu 6-2, 800đ : Cá Ruồng xanh - Cosmo cheilus harmandi

Mẫu 6-3, 2000đ: Cá Ch́nh mun-Anguilla bicolor pacifica

Mẫu 6-4, 3000đ: Cá C̣m - Chitala ornata (Gray)

Mẫu 6-5, 7000đ : Cá Cháo lớn - Megalops Cyprinoides

Mẫu 6-6, 8000đ : Cá Sóc - Probarbus fullieni Sauvage

 

7. 13 - Ư-thức Trách-nhiệm Bảo vệ Biển

Ở đất liền, một số cơ nguy về suy-thoái có thể nh́n thấy được dễ dàng. Người Việt-Nam cũng đă ư-thức một phần cơ nguy đó. Người dân nhiều nơi thuộc câu ca dao truyền đời:

"Phá rừng như thể phá nhà.

Đốt rừng như thể đốt da thịt ḿnh."

Ngoài Biển Đông, mối lo đáng kể hơn nhiều về phần tâm-lư. Qua nhiều thế-hệ, người Việt sống với Biển Đông, nh́n ra Biển Đông như một h́nh-thức bao la, vĩnh-cửu, thiêng-liêng... không lấy ǵ mà so-sánh cho được. Bernard Philippe Groslier nhận-xét rằng biển cả thật sâu đậm trong ḷng dân Việt: "Biển cả trải dài, vượt cả ra ngoài chân trời và tầm hiểu biết của con người, gợi ra cái ấn-tượng về nguồn gốc của muôn loài, cả đến một thế-giới trước khi khai-thiên lập-địa và cũng là nơi quê-hương cho người chết trở về". Vậy th́ làm sao Biển lại bị ô-nhiễm cho được.

Nói chung, ư-thức trách-nhiệm bảo vệ Biển, Bờ Biển, Hải-đảo, Vùng Ngập Nước.. là những ǵ rất mới lạ đối với người dân Việt-Nam. Phải cần một thời gian làm quen học hỏi, t́nh trạng này mới khá hơn được.

 

H́nh 179. C̣ th́a mặt đen sống trong những Vùng NgậpNước .Qua nhiều năm, một phần tư số lượng của loài chim này trên toàn cầu  tới trú đông tại miền Bắc Việt Nam.

 

Bảng 5: Các khu Bảo-vệ Biển đề-xuất ở Việt Nam

Khu

Tỉnh

Nguồn Đề xuất

1

2

3

Ba Mùn

Quảng Ninh

 

 

Các đảo Vịnh Hạ Long

Quảng Ninh

 

Đảo Bạch Long Vĩ

Hải Pḥng

Đảo Cát Bà

Hải Pḥng

Đảo Cô Tô

Quảng Ninh

Đảo Trần

Quảng Ninh

 

Ḥn Mê

Thanh Hoá

 

Thái Thuỷ

Thái B́nh

 

 

Tiền Hải

Thái B́nh

 

 

Xuân Thuỷ

Nam Định

 

 

H́nh 180. Các Khu Bảo-Vệ Biển trong Vùng VịnhBắc-Việt
(1) = Đề-xuất bởi Nguyễn Huy Yết và Vơ Sĩ Tuấn (1995)
(2) = Đề-xuất bởi Nguyễn Chu Hồi et al. eds. (1998)
(3) = Đề-xuất bởi Ngân hàng phát triển Châu Á¸ (1999)

7 vùng ngập nước ven biển quan trọng ở vùng châu thổ sông Hồng:

- Khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Thuỷ

- Vùng ngập nước ven biển huyện Nghĩa Hư­ng, 

-  Hai khu vực cửa sông Thái B́nh, huyện Thái Thuỵ và cửa sông Văn Úc huyện Tiên Lăng.

- Khu Bảo tồn thiên nhiên Tiền Hải (mới thành-lập, nhưng chỉ được xếp hạng thứ tư).

- Bờ biển phía Nam huyện Thủy Nguyên xếp hạng sau cùng.

KƠt qu¶ dù ¸n chØ ra r»ng că 7 vïng ngËp n­íc ven biÓn quan träng ë vïng ch©u thæ s«ng Hång. Vïng quan träng nhÊt ®èi víi c«ng t¸c b¶o vÖ lµ

-Khu B¶o tån thiªn nhiªn Xu©n Thuû, xƠp thø hai lµ

-toµn bé vïng ngËp n­íc ven biÓn ë huyÖn NghÜa H­ng, xƠp thø ba lµ

-hai khu vùc cöa s«ng Th¸i B×nh, ë huyÖn Th¸i Thu₫

vµ cöa s«ng V¨n óc ë huyÖn Tiªn L·ng.

-Khu B¶o tån thiªn nhiªn Tỉn H¶i míi ®­îc thµnh lËp, c«ng t¸c b¶o tån că ư nghÜa thÊp h¬n vµ xƠp hµng thø t­ trong nghiªn cøu nµy.

-Bê biÓn ë phƯa Nam huyÖn Thuû Nguyªn ®­îc xƠp sau cïng.

 

H́nh 181. Các loài thú to lớn, hiếm-quư đang có cơ nguy bị tuyệt-chủng

 

 

H́nh 182. Một cách nhắc-nhở tốt cho người dân: những đồng bạc có in h́nh sinh-vật cần bảo-tồn

 

 

H́nh 183.  Mạng lưới Môi-trường quốc-gia

 

 

The bulk of the problems stem from twenty fishing countries whose fleets land 80 percent of the total marine catch worldwide.

·         1. China

·         2. Peru

·         3. Japan

·         4. Chile

·         5. USA

·         6. Russian Fed.

·         7. Thailand

·         8. Indonesia

·         9. Korea, Rep.

·         10. Norway

·         11. India

·         12. Iceland

·         13. Philippines

·         14. Korea, DPR

·         15. Denmark

·         16. Spain

·         17. Taiwan, Prov China

·         18. Canada

·         19. Mexico

·         20. Vietnam

 

 

 

 

 

 

Since 1970, the world's fishing fleet has expanded twice as fast as world catches. The fishing fleet in China, the world's leading fish producer, is now around six times the size it was in 1979. As a result, excess fishing capacity has reached alarming proportions. There are about 3.5 million vessels boats currently fishing in the world's oceans. Intense competition between countries and rival fleets over access to fishing grounds has sparked numerous international disputes over fishing rights in recent years.

THE GLOBAL FISHERIES CRISIS http://www.greenpeace.org/~comms/cbio/global.html

http://www.greenpeace.org/~comms/cbio/global.html

 

 

H́nh 184. Tem thư vẽ h́nh Chim Trĩ Nghệ-Tĩnh

 

 

 

 

 

 

 

 

 H́nh 185.  Một Huy-hiệu kêu gọi “Hăy Cứu Cá Voi”- “Save A Whale”

 

 

H́nh 186. Trung-Hoa (số 1) dẫn đầu thế-giới rất xa về số lượng tàu đánh cá lớn

 

 

 

 

H́nh 187. Bản-đồ cho thấy sự suy-thoái trầm-trọng của rừng cây Việt-Nam trong khoảng 30 năm (1943-1993)

 

 

Forest cover percentage in 50 years

Years

F. cover (%)

·         1943

·         1976

·         1990

·         1995

 43,2

 33,7

 27,7

 28,1

 

Bảo-tồn tài-nguyên thảo mộc-Việt Nam

 Việt Nam là một trong 16 nước trên thế-giới được xếp hạng phong-phú về đa-dạng sinh-học, thảo mộc và cầm thú (WCMC, 1997). Ước tính có khoảng 12 ngh́n loài (spesies) thảo mộc trên toàn lănh-thổ Việt Nam, trong số đó khoảng 50% là loài bản-địa (endemic) (Le T.Hoan et al., 1999), cung cấp khoảng 1900 loài cây có ích (Trần Đ́nh Lư, 1993), gồm khoảng 40 loài cây hoa màu và hơn 1500 loài cây làm rau hay trái ăn được (Le T. Hoan et al., 1999), trên 100 loài cây cho gỗ quư (Trần Hợp và Hoàng Q. Hà, 1997), và khoảng 3200 loài cây làm thuốc (Vơ Văn Chi, 1996). Thảo mộc ngày nay được xem là nguồn cung cấp dợc liệu quư giá mà khoa-học hiện đại chưa thể tổng hợp nhân tạo được. Chẳng hạn mới đây các nhà khoa-học Vườn Bách thảo Hoàng gia Kew (Anh), đă trích từ cây Catharanthus roseus ở Madagascar được dợc chất Vinca alkanoid dùng để trị bệnh bạch cầu của trẻ em (leukaemia) và bệnh Hodgkin. Tiềm-năng hữu ích của thảo mộc-Việt Nam chưa được khám phá đúng mức v́ tŕnh-độ khoa-học c̣n yếu kém, đặc biệt trong lĩnh vực t́m nguồn gene hữu ích ở loài cây hoang dại của Việt Nam

Trong rất nhiều thập niên vừa qua, các nhà khoa-học của phơng Tây (Âu, Mỹ), Australia, cũng như Nhật Bản và Đài Loan đă âm thầm đa vào nước họ những giống cây của Việt Nam, giống canh tác cũng như giống hoang dại bản-địa , ngay cả giống không có một giá trị kinh-tế, để làm giàu tài-nguyên di truyền (gene) thảo mộc của nước họ và tạo ra giống mới. Trong lúc đó, Việt Nam chưa quan tâm về tầm quan-trọng của nguồn gene trong các loài hoang dại, v́ vậy để các loài và giống này đang trên đà tuyệt chủng. Công-nghệ sinh-học đang trên đà phát-triển trên thế-giới. Việt Nam cũng đang đầu tư vào lĩnh vực này ở các cơ sở nghiên-cứu và trường đại học. Kỹ-thuật chuyển gene để tạo giống mới không khó, cái khó nhất là làm sao biết có gene tốt và lấy từ đâu. Đó là những giống loài hoang dại, giống cổ truyền mà chúng ta chưa biết ǵ về nguồn gene của nó. Rừng là nơi trú ngụ của cây và thú. Nạn phá rừng ở Việt Nam đă được báo động và cảnh báo từ giữa thập niên 1940 với bài thơ của B.B, tức Kỹ sư Thủy Lâm Bùi Bá (Lê Văn Kư, 1998).

Từ trên 20 triệu ha rừng của thời 1945, Việt Nam ngày nay chỉ c̣n khoảng 5 triệu ha rừng (FAO, 1997).

Chưa kể những thảm họa hậu quả của việc phá rừng trên môi trường sinh-thái, khí hậu, xói ṃn đất đai, lũ lụt,v.v.., tài-nguyên cây và thú của Việt Nam đă và đang bị cạn kiệt đáng kể. ở Việt Nam có bao nhiêu loài cây đang bị hiểm họa tuyệt chủng? Con số biến thiên khá nhiều; khoảng 40 loài cây theo Nguyễn Hoàng Nghĩa (1999), 356 theo Sách Đỏ Việt Nam (1996), hay khoảng 364 trong số 983 loài cây được khảo sát và coi là đang bị hiểm họa tuyệt chủng (WCMC, 1997). Và cũng theo tài-liệu này, đă có một hoặc hai loài cây đă tuyệt chủng ở Việt Nam (WCMC, 1997). Cũng cần nói thêm là các danh sách liệt kê nói trên chỉ đề cập đến những loài thảo mộc có lợi ích kinh-tế trớc mắt. Số lượng cây cối có nguy cơ tuyệt chủng sẽ nhiều hơn nữa nếu tính đến các loài hoang dại không kinh-tế. Chẳng hạn, không ai c̣n t́m ra những giống Thị Diospyros Nhatrangensis, Diospyros Bangoiensis, hay Diospyros fleuyana v.v.. là những giống Thị bản-địa của Khánh Ḥa, và ngay cả Cây Mun (Diospiros mun) bản-địa của vùng này cũng đă trở nên hiếm hoi khó kiếm. Cũng cần biết thêm rằng một giống cây có thể bị tuyệt chủng trong một thời gian rất ngắn, nhng phải mất từ vài ngh́n năm đến mời ngh́n năm, loài cây mới được tiến hóa (evolution) tự nhiên để tạo ra một loài cây mới.

Công tác khẩn cấp hiện nay là các nhà khoa-học-Việt Nam phải bảo-tồn nguồn di sản thực-vật đă có của Việt Nam trớc hiểm họa tuyệt chủng. Có hai phơng pháp bảo-tồn: bảo-tồn tại-chỗ (in-situ conservation) và bảo-tồn từ-xa (ex-situ conservation).

Bảo-tồn tại-chỗ gồm việc bảo-vệ cả hệ môi sinh, ở nơi đó các loài cây được phát-triển và tiến hóa tự nhiên. Việc bảo-vệ đa-dạng sinh-học ở khu rừng cấm, rừng bảo-vệ, các lâm viên quốc-gia là một thí-dụ của phơng pháp bảo-tồn tại-chỗ. Việt Nam có khoảng 90 khu rừng bảo-vệ và lâm viên quốc-gia (thí-dụ Cúc Phơng ở Ninh B́nh, Cát Tiên ở Đồng Nai) chiếm khoảng 1,1 triệu ha nhng việc quản lư coi như rất nghèo nàn (http://www.wcmc.org.uk/inforserv/countryp/vietnam). Ngoài ra, khu rừng bảo-vệ hay lâm viên quốc-gia cũng có thể bị tiêu hủy v́ nhiều lư do. Chẳng hạn Lâm Viên Quốc-gia Trảng Bom được quy định trớc 1960 với khoảng 350 ha, ngày nay chỉ c̣n không tới 3 ha. Báo chí Việt Nam mới đây cũng phản ánh việc chặt đốn nhiều cổ thụ của nhiều loài cây quư và hiếm ở Lâm viên Cúc Phơng v́ nạn thu hái hoa lan (orchid). Một h́nh thức bảo-tồn tại-chỗ khác là bảo-tồn tại-nhà-vườn (on-farm conservation) đối với một số loài cây hoang dại đă có từ nhiều đời (thí-dụ cây mù u, Calophyllum inophyllum, v.v... ở các vườn ở miền Tây) và giống cổ truyền bản-địa (landraces). Biện pháp bảo-tồn này phải được Chính phủ tài trợ với chính sách bù lỗ, nếu không nông dân sẽ đốn bỏ để thay thế giống cây có kinh-tế hơn.

Bảo-tồn từ-xa gồm việc giữ giống và loài cây ở nơi khác, xa cách nguồn cội, gồm:

 I. Vườn bách thảo (botanic garden) và hoa viên.

 II. Vườn su tập loài và giống trồng (cultivars).

 III. Tồn trữ hạt phấn (pollen), chồi cây (bud), rễ cây (root), mô (tissue), DNA, v.v... để tái tạo ra cây khi cần-thiết.

 IV. Ngân-hàng hột giống (Seed genebank).

 Vườn bách thảo hiện được thế-giới khuyến khích, v́ là nơi vừa bảo-tồn giống cây, vừa là nơi giúp nghiên-cứu và học tập, và cũng là nơi giải trí. Thành lập vườn bách thảo cũng có những nguy cơ thất bại. Chẳng hạn, vườn Bách Thảo Sài G̣n trớc kia có 760 loài cây, ngày nay chỉ c̣n chừng 300 loài cây, như vậy hơn 460 loài cây quư giá, đa số là su tập cây dợc tính, đă bị hủy bỏ để thay thế bằng công-tŕnh vui chơi. Một bất tiện khác là không phải các loài cây ở vườn bách thảo đều sinh trởng b́nh thờng, bởi v́ cách xa nguồn cội về địa-lư và nhiều lư do sinh-học khác. Chẳng hạn, cây Mun (Diospyros mun) trong vườn Bách Thảo Sài G̣n chưa hề ra hoa, kết trái mặc dầu nay đă là cây cổ thụ. V́ vậy, mỗi thành-phố nên có một vườn bách thảo với giống bản-địa của địa-phương là chính, ngoài ra c̣n su tập giống ngoại nhập.

 Các hoa viên thành-phố cũng nên trồng các giống cây bản-địa , để nói lên "đặc sản" của thành-phố quê hơng ḿnh. Cây Trầm Hơng (Aquilaria crassna) là bản-địa của rừng núi Khánh Ḥa, và cây này đă đi vào huyền thoại Thanh Y Thánh Mẫu của Tháp Bà hay Ngậm ngải t́m trầm mà trẻ em nào cũng biết, nhng có mấy ai ở Nha Trang biết cây trầm hơng như thế nào. Nha Trang cũng là quê hơng của nhiều giống thị (Diospyros), và ngay với giống có kinh-tế như cây Mun (Diospyros mun), có mấy ai thấy được?

 như Giáo s Phạm Hoàng Hộ (1999) khuyến cáo, ngay cả trong các ngôi nhà có vườn rộng, hay các dinh thự, sân các trường học cũng nên trồng các loài cây bản-địa hiếm quư.

 Việc bảo-tồn giống cây qua biện pháp tồn trữ hạt phấn, mô, v.v. cần phải có kỹ-thuật cao và tài-chính dồi dào, nên ngoài phạm-vi của bài viết này.

 Bảo-tồn nguồn gene qua ngân-hàng hột giống (Seed Genebank) là biện-pháp rẻ tiền và an toàn nhất và hiện được thế-giới áp dụng. Chẳng hạn, Ngân-hàng hột giống thiên niên kỷ (Millennium Seed Bank) của Vườn Bách thảo Hoàng Gia (Royal Botanic Gardens, Kew;

http://www.kew.org/conservation/seedcon.html) hiện tồn trữ hột của 90% loài cây của Anh quốc, và dự trù tồn trữ 99% loài cây của nước Anh và 10% cây trên toàn thế-giới vào năm 2010. Trong điều-kiện tồn trữ 5% ẩm độ hột và -20oC áp dụng ở ngân-hàng này, hột có thể tồn trữ trên vài trăm năm mà không mất khả-năng nẩy mầm. Tuy nhiên, không phải hột của mọi loài cây đều có thể tồn trữ. Chỉ có loại hột chính thống (orthodox), tức loại hột có thể rút nước xuống 3-6% độ ẩm mới có thể tồn trữ lâu dài trong điều-kiện trên, c̣n các loại hột thuộc nhóm phản tính (recalcitrant) và trung gian (intermediate) th́ không tồn trữ được trong điều-kiện của ngân-hàng hột giống. Theo một điều-tra mới đây về bản chất tồn trữ hột của khoảng 7 ngh́n loại thảo mộc trên thế-giới, th́ chỉ khoảng 90% loài cây có bản chất chính thống, nghĩa là tồn trữ được trong ngân-hàng hột giống (Hong et al., 1998). Việt Nam đă có ngân-hàng hột giống cho lúa và cây màu (Viện Lúa đồng-bằng sông Cửu Long ở Ô Môn, Cần Thơ), nhng chưa có ngân-hàng hột cho loài cây khác. Việc thiết lập ngân-hàng hột cho các loài cây ở Việt Nam rất cần-thiết, để nhanh chóng bảo-tồn nguồn gene quư báu đang có nguy cơ tuyệt chủng trong thời gian ngắn sắp tới. Việc nghiên-cứu bản chất tồn trữ của hột, v́ vậy cần phải bắt đầu ngay bây giờ, theo các thủ tục nghiên-cứu đă được vạch sẵn (Hong và Ellis, 1996), bởi v́ hiện tại chúng ta chỉ biết bản chất tồn trữ của hột của chỉ khoảng chừng 3% của tổng số 12 ngh́n loại thảo mộc của Việt Nam mà thôi.

Để có được những tự liệu cho đề tài nghiên-cứu này, tác giả chân thành cảm tạ Darwin Initiative Project của Chính phủ Vơng quốc Anh đă tài trợ tác giả trong nhiều chuyến công tác ở Việt Nam.

Tiến sĩ Trần đăng hồng

Đại học Reading, Anh

(Tạp chí Khoa-học phổ thông)

 

Săn bắn và đánh bắt cá quá độ

Săn bắn được xếp vào hàng những đe doạ mới nhưng rơ ràng là một mối đe doạ lớn đối với một số loài có nguy cơ bị tuyệt chủng. Các vùng nông thôn thiếu vắng chim trong làng và trên cánh đồng. Đó là do săn bắn kết hợp với việc sử dụng quá độ thuốc trừ sâu và phân hoá học và do độc canh sinh thái cây lúa .

Đánh bắt cá quá độ là một sự thật trong cuộc sống ở khắp mọi nơi . Hơn nữa các phương pháp đánh bắt áp dụng không được lựa chọn và tàn phá lớn như bẫy cá, thả đăng, lưới, chất nổ và sử dụng cả chất độc.

Đánh bắt cá quá độ có thể thấy rơ trong sản lượng đánh bắt suy giảm mặc dầu trong mươi năm nay tốc độ đánh bắt tăng (h́nh35). Một con số khổng lồ đáng ngại ở phía Bắc khu vực trên vĩ tuyến 200N nơi sản lượng thực tế giảm đột ngột từ năm 1987 và trong năm 1992, sản lượng giảm 39% mặc dầu đội thuyền cá tăng công suất 32%. Một số loài cho thấy suy giảm đáng kể là Nemalalosa nasus đă được đánh bắt 1000 tấn/năm trong 30 năm qua nhưng hiện nay vô cùng hiếm. ở Bắc Việt Nam, sản lượng ba loài Clupeidae, Hilssa reveesi (cá trích năm đốm), Clupanodon thrissa và C.punctatus, đă giảm từ 500-1000 tấn/năm xuống c̣n 10-20 tấn/năm. Các thuỷ sản khác ngoài cá như tôm hùm (Panulirus), bào ngư(Haliotes), ṣ (Chlamys) và mực (Loligo) cũng cho thấy sản lượng giảm. Trai ngọc Pinctada martensii và Lutraria philippinarum đă biến mất khỏi nhiều vùng miền Bắc. Khai thác những loài trên vẫn tiếp tục mặc dù cả ba loài Clupeids, bốn loài tôm hùm và hai loài bào ngưđược liệt kê trong loại dễ tổn thương và Loligo formosana liệt vào loại có nguy cơ bị tiêu diệt trong Sách Đỏ Việt Nam.

 

H́nh 188.

 

 

In-shore catch per fishing unit reduced, because of over-fishing and destructive methods, ton/boat 16.7 in 1996; 15.3 in 1997 and 13.8 in 1998

 

 

 

 

 

 

 

 

H́nh 189. Những khu-vực bảo-tồn Vùng Vịnh Bắc-Việt

 

 

H́nh 190. Những loài linh-trưởng có cơ nguy tuyệt-chủng

 

H́nh 191. Một Huy-hiệu kêu gọi “Hăy Cứu loài Rùa”Kẻ thù lớn nhất của rùa biển là các lưới cào và lưới giăng gần bờ. Cứ đến mùa đẻ trứng, trăm con rùa lại bị chết kèm theo hàng tỷ trứng.

 

 

H́nh 192. Đồi mồi đă sống khắp nơi trong Biển Đông, nay chỉ c̣n lại tại Vịnh Phú-Quốc

 

Lư-do phải Quan tâm đến Sinh-vật Sắp Tuyệt chủng

Tại sao con người lại phải quan tâm nhiều đến các loài động thực vật sắp bị tuyệt chủng như vậy?

Mỗi loài động thực vật đều là sản phẩm của một quá tŕnh tiến hoá rất lâu dài. Trong quá tŕnh đó, mỗi loài đă tự tích luỹ cho riêng ḿnh những gien chống chịu với bệnh tật, với sự thay đổi khí hậu và các điều kiện sống khác. Do đó các sinh vật hoang dại đều khoẻ mạnh, khó bị bệnh tật tiêu diệt và có khả năng thích nghi cao. Đó là những ngân hàng gien sống quư hiếm. Điều kiện sống thay đổi liên tục, nếu để mất đi bất cứ loài nào, th́ thiên nhiên sẽ không bao giờ có thể tái tạo lại được kiểu gen riêng của loài đó.

Mỗi sinh vật có một vai tṛ nhất định trong hệ sinh thái, là một mắt xích khép kín chu tŕnh tuần hoàn vật chất của hệ. Hệ càng có nhiều loài, càng đa dạng th́ càng bền vững. Mất đi một loài là giảm tính đa dạng sinh học của cả hệ. Làm cho đời sau không c̣n được chiêm ngưỡng chúng sống động nữa. Mỗi sinh vật ẩn chứa trong ḿnh rất nhiều bí ẩn mà đời nay chưa thể khám phá ra hết được. Làm mất đi một loài, là chúng ta làm cho đời sau mất đi một đối tượng để nghiên cứu, mất đi một h́nh mẫu lư tưởng để mô phỏng theo.

Tóm lại, mỗi loài đều có vị trí và vai tṛ nhất định trong tự nhiên mà loài khác không thể thay thế được. Chính v́ thế mà con người cần đặc biệt quan tâm tới các loài sắp bị tuyệt chủng.

 

Các biện pháp bảo vệ rừng

Ngoài việc đem tài nguyên kinh tế gỗ đến với chúng ta, cây rừng còn có nhiều lợi ích quan trọng khác: cung cấp ôxy, giữ đất sau những trận mưa lũ. Tuy nhiên, tàn phá rừng bừa bãi đang diễn ra khắp nơi trên thế giới và trở thành vấn nạn.

 

 

Bản-đồ về Đồng-bằng sông Hồng

Vùng ven biển châu-thổ sông Hồng là ni có tiềm-năng lớn về thủy sn, điều đó phụ thuộc vào việc duy tŕ toàn vẹn hệ sinh-thái của rừng ngập mặn, các vùng bÓi triều cũng nh các sinh cnh có liên-quan khác. Những vùng triều ở châu-thổ sông Hồng được xác-định là có tầm quan-trọng quốc tế bởi đây là những vùng c trú và cung cấp thức ăn cho một số loài chim đang bị đe doạ trên toàn-cầu.

Với diện-tích khoảng 866 000 ha, vùng đồng-bằng sông Hồng là ni tập trung dân c đông đúc nhất và cuộc sống ngời dân phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn-lợi của đất ngập nước dẫn tới việc khai-thác quá mức các vùng đất ngập nước trong khu-vực. Mặc dù vậy, vùng ven biển châu-thổ sông Hồng vẫn rất đa-dạng về số loài sinh-vật hoang dÓ.

Năm 1996 BirdLife và Viện Điều-tra Quy hoạch Rừng cùng phối hợp thực-hiện dự án Bo tồn các vùng đất ngập nước quan-trọng ở đồng-bằng sông Hồng do Đại sứ quán Vng quốc Đan Mạch tài trợ. Dự án nhằm hỗ trợ việc xác-định, đánh giá và bo tồn các vùng đất ngập nước quan-trọng ở đồng-bằng sông Hồng.

Công tác ngoại nghiệp đă được thực-hiện trong sáu tháng từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1996 ở các vùng ven biển của các tỉnh Thanh Hoá, Ninh B́nh, Nam Hà, Thái B́nh và Hi Pḥng và đă thu thập được các số liệu về đặc điểm sinh-học và t́nh trạng hiện tại của các nguồn tài-nguyên cũng nh việc sử-dụng đất của nhân dân địa-phương. Kết-quả của dự án chỉ ra rằng có 7 vùng đất ngập nước ven biển quan-trọng cấn được u tiên bo tồn ở đồng-bằng sông Hồng (xem bng phía dới).

Các điểm này sau đó đă được đánh giá dựa trên việc sử-dụng các tiêu-chuẩn chi tiết và đa ra các đề xuất cho các hoạt-động qun lư. Những thông tin này được giới thiệu trong Báo cáo số 8 với tiêu đề Bo tồn các vùng đất ngập nước quan-trọng tại đồng-bằng sông Cửu-Long.

Bảy vùng ngập nước ven biển quan-trọng ở đồng-bằng sông Hồng:

1 (cao nhất)   Khu bảo-tồn thiên-nhiên Xuân Thủy

2     Huyện Nghĩa Hng

3 loại  Khu-vực cửa sông Thái B́nh (huyện Thái Thuỵ)

4 loại  Khu-vực cửa sông Thái B́nh (huyện Tiền Hải)

5 loại  Khu-vực cửa sông Văn úc ( huyện Tiên LÓng)

6     Khu bảo-tồn thiên-nhiên Tiền Hải

7 (thấp nhất)   Bờ biển phía nam huyện Thủy Nguyên

 

Coastal and Marine Resources Protection Targets

·         National system of 15 marine protected areas established

·         64 wetland areas protected

·         Rate of mangrove and wetland loss reduced by 10% and 90% respectively

·         Off-shore fishing program implemented

·         Integrated Coastal Zone Management implemented

 

 

 

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lư Nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi và phát triển nông thôn. Bộ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về quản lư Nhà nước quy định tại chương IV Luật Tổ chức Chính phủ và tại Nghị định số 15/CP ngày 02 tháng 3 năm 1993 của Chính phủ. Bộ có nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu sau đây:

1. Tŕnh Chính phủ các dự án Luật, Pháp lệnh và các văn bản pháp quy về các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi và phát triển nông thôn. Ban hành các văn bản theo thẩm quyền và các lĩnh vực do Bộ phụ trách.

2. Tŕnh Chính phủ chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch dài hạn, trung hạn và tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện sau khi được Chính phủ phê duyệt về các lĩnh vực :

  • Trồng trọt, chăn nuôi và chế biến nông, lâm sản và phất triển ngành nghề nông thôn.
  • Quản lư, bảo vệ và phát triển vốn rừng, khai thác lâm sản.
  • Quản lư tài nguyên nước (trừ nước nguyên liệu khoáng và nước địa nhiệt), quản lư việc xây dựng, khai thác công tŕnh thuỷ lợi, công tác pḥng chống băo lụt, bảo vệ đê điều (đê sông và đê biển), quản lư việc khai thác và phát triển tổng hợp các ḍng sông.
  • Quản lư Nhà nước các hoạt động dịch vụ chuyên ngành.

 

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Đồng chí: NGUYỄN Đ̀NH THỊNH
THỨ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Trực tiếp phụ trách các lĩnh vực sau:

  • Công tác quản lư đê điều và pḥng chống lụt băo bao gồm:
    • Quy hoạch phát triển thuỷ lợi.
    • Quy hoạch, kế hoạch các công tŕnh đê điều và pḥng chống lụt băo.
    • Chính sách, quy tŕnh, quy phạm và tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực đê điều và pḥng chống lụt băo.
    • Quản lư chất lượng đê điều và pḥng chống lụt băo.
    • Chỉ đạo thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đê điều và pḥng chống lụt băo.

 

 

 Tu bæ, n©ng cÊp hÖ thèng c¸c c«ng tr×nh phßng, chèng lôt, b·o lµ viÖc lµm th­êng xuyªn h»ng n¨m ë c¸c ®̃a ph­¬ng. C«ng viÖc nµy ®­îc thùc hiÖn vµo c¸c th¸ng mïa kh«, khi

mùc n­íc c¸c s«ng xuèng thÊp vµ ph¶i hoµn thµnh vµo tr­íc mïa m­a, b·o.

 Do ®Êt n­íc n»m tr¶i dµi trªn nhỉu vÜ ®é, cho nªn quy luËt thêi tiƠt ë mçi khu vùc că kh¸c nhau. Mïa m­a, b·o ë c¸c tØnh tơ b¾c Trung Bé trë ra th­êng ®Ơn sím h¬n c¸c tØnh tơ trung Trung Bé trë vµo nam, v× vËy thêi h¹n ph¶i hoµn thµnh kƠ ho¹ch tu bæ ®ª ®ỉu ®­îc quy ®̃nh: ®èi víi c¸c h¹ng môc lµm k̀, cèng d­íi ®ª ph¶i hoµn thµnh vµo cuèi th¸ng 4, ®¾p ®ª ph¶i xong vµo cuèi th¸ng 5 h»ng n¨m ®Ó chñ ®éng phßng, chèng ḷ tiÓu m·n vµ nh÷ng biƠn ®éng xÊu cña thêi tiƠt.

 

H́nh 193. Sự chênh-lệch gần 6 thước giữa mức nước báo-động tại Sông Hồng và Sông Mă

 

Mối tương quan về tần suất xuất hiện thiên-tai ở Việt Nam

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của thiên-tai trên thế giới. Bảng dưới đây mô tả mối tương quan giữa các sự kiện thiên-tai và tần xuất xuất hiện của chúng ở Việt Nam và rơ ràng là hầu hết các thiên-tai đều có liên quan trực tiếp và gián tiếp tới nước (hoặc là nguyên nhân hoặc do thiếu hụt nguồn tài nguyên này).

Thiệt hại nghiêm trọng nhất thường xảy ra do lũ lụt, đặc biệt là khi có sự kết hợp với các cơn băo. Các cơn băo làm nâng cao mực nước biển hàng mét và gây ra hiện tượng nước dâng ở vùng cửa sông, làm ngập lụt khu vực đất nông nghiệp. Với vận tốc gió cao, các cơn băo phá huỷ nhà cửa và tạo thành sóng phá hoại các đê biển bảo vệ các vùng đất bên trong. Mưa với cường độ cao kết hợp với băo gây nên lũ quét, xuất hiện một cách đột ngột ở các khu định cư và thường xuyên gây ngập các vùng đất thấp. Ḍng chảy xuất hiện do mưa băo, sau đó đổ vào sông đă bị đầy trong mùa mưa, tạo thành lũ và gây nguy hiểm cho đê sông và đe doạ tàn phá hàng triệu giađ́nh.[235]

 

H́nh 194. Số lượng Băo tố thổi vào Việt-Nam Number of Typhoons by Year to hit Viet Nam [236]

 

H́nh 195. Đường đi tiêu-chuẩn của các trân băo trong những tháng 7, 8, 9, 10 Mùa mưa băo ở các tỉnh miền Bắc thường đến sớm hơn các tỉnh miền Trung khoảng 1 đến 2 tháng

 

H́nh 196. Thiệt-hại nhân-mạng v́ thiên-tai

 

landslides and mud flows.

Over the past 25 years, more than 13,000 people have been killed by such disasters. A tropical depression off the coast of Thanh Hoa in 1996 caught thousands of fisherman at sea; over 600 lost their lives. In the same year, in the mountain province of Lai Chau, the hamlet of Lo Le was literally washed off the map by a flash flood; 89 people were killed. In 1997 Typhoon Linda became the worst natural disaster in living memory. Skirting the tip of southern Viet Nam, this storm resulted in the deaths of over 3,000 people and more than US$ 400 million in damages.

 

 

 

Cyclones

Floods

Droughts

Earthquakes

PHILIPPINES

155

51

5

15

BANGLADESH

78

51

4

2

VIETNAM

43

20

1

1

THAILAND

15

20

2

0

MYANMAR

5

10

0

2

LAOS

3

7

6

0

CAMBODIA

0

3

1

0

 

H́nh 197. Thống-kê cho biết Việt-Nam có nhiều thiên-tai về thủy-tai như lụt lội và băo tố hơn là hỏa-tai và những thiên-tai khác

 

H́nh 198. Những vùng Duyên-hải Bắc-Việt bị ảnh-hưởng tai-hại của băo và lụt

 

 

H́nh 199. 3 Trung-tâm Báo-động Băo-tố Vịnh Bắc-Việt

 

Có chăng nghịch lư của đê kè?

            Một phần tư thế-kỷ trước, trong cuốn Thiên-nhiên Việt-Nam (NXB Khoa-học và Kỹ-thuật, 1977), cố Giáo sư Lê Bá Thảo đă tiên tri về sông Hồng, đại ư: Bị kẹp giữa hai con đê, ḍng sông Hồng mang nặng phù-sa, chơi tṛ luẩn quẩn, đào xới chỗ này, bồi đắp chỗ khác. Và Giáo sư đă nói, những ḥn đảo nổi lên rồi lại mất đi. Hạt phù-sa dường như cưỡng lại ư muốn của con người, nó nổi trôi khi lắng lại thành phẩm-vật cho bên bồi, khi tụ lại thành ḥn đảo, khi tan thành bọt nước, bên bồi hóa ra bên lở. Chính việc đắp đê đă khiến cho lợng phù-sa không được bồi đắp cho nội đồng, dẫn đến hiện tượng tự bồi lắng nâng cao ḷng sông Hồng. Khi đề cập tới hiện tượng này, Tiến sĩ Đỗ Đức Hùng trong cuốn “Vấn-đề trị thủy sông Hồng” lại tiên đoán trong tương lai người Hà Nội sẽ thấy đê sông Hồng cao nhu... Vạn lư trường thành, v́ ḷng sông Hồng sẽ cao tương đương với nóc thành-phố hiện nay... Hiện tại, trong những tháng mùa mưa, sông Hồng đoạn gần Hà Nội có thể có mức nước từ 5 đến 6 mét so với cao-tŕnh đáy , nhưng ngược lại 1000 năm trước đây, mực nước này chỉ cao từ 2 đến 3 mét so với đáy sông. Hệ thống đê sông và đê biển của Việt Nam đă tồn tại hàng thế kỷ và đang suy yếu do bị tro phượt, bị sạt lở cục bộ, mặc dù hàng năm vào mùa lụt băo, có hàng trăm ngàn người được huy động để củng cố và sửa chữa hệ thống đê này [237]... Chính nghịch lư đó của ḍng sông khiến các nhà quản lư và các nhà khoa-học cần phải có một chiến lợc tổng thể trong việc ứng xử với sông Hồng, chứ không chỉ cậy vào đê kè.

Có một thực-tế là suốt một dải đất lở,

 

 

H́nh 200. Thống-kê thiệt-hại thiên-tai hàng năm

 

 

Hinh 201. Bích-chương “Hay Cứu Linh-Trưởng Việt-Nam”

 

Theo ông Davis Hulse[238],Trưởng đại diện của WWF (World Wildlife Fund) tại Việt-Nam rừng nhiệt-đới của cả nước đang bị đốt phá 10 vạn hec- ta mỗi năm và các khu rừng ven biển là nơi trú ngụ cho các loài linh trưởng cũng đang bị thu hẹp một cách nhanh chóng. Điều đáng nói là những khu đất ngập nước nay lại là những điểm dừng chân quan-trọng dọc theo đường bay Đông-Á của các loài chim di cư, trong đó gồm ít nhất 15 loài đang bị đe doạ tuyệt chủng trên toàn-cầu. Ngoài ra, sự tấn công vào các hệ sinh-thái ven biển đă ở mức báo động.

 

Làm ǵ để Bảo-tồn Đa-dạng Sinh-học Biển?

Không thể phủ nhận được rằng Việt-Nam đă đạt những thành quả nhất định trong việc bảo-tồn đa-dạng sinh-học biển. Đó là việc thành lập các khu bảo-tồn, đặc biệt là trường hợp của Côn Đảo. Nơi đây đă thống-kê được 44 loài là nguồn gen cực kỳ quư hiếm của Việt-Nam, đặc biệt là các loài ḅ sát và thú biển. Theo Vườn Quốc-gia Côn Đảo, rùa biển và dugong đă được quan tâm bảo-vệ rất có hiệu-quả. Từ 1995, với sự tài trợ của WWF, 80% số trứng hàng năm (80 ngh́n trứng năm 1997) đồi mồi và vích đẻ tại Côn Đảo đă được cứu hộ cho ấp nở và rùa con nở lại về biển. Loài dugong, đối tượng được bảo về trên toàn-cầu đang sinh sống tại đây cũng đă được sự bảo-vệ đặc biệt. Viện Hải-Dương-học Nha Trang cho biết, khảo sát năm1997 cho thấy quần thể chừng 10 dugong vẫn đang được yên ổn...

Hiện nay với sự trợ giúp của WWF, 7 khu bảo-tồn biển của VN đă được ưu-tiên bảo-vệ là Cát Bà (Hải-pḥng), Cô Tô (Quảng-Ninh), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Ḥn Mun (Nha Trang), Côn Đảo (Bà Rịa Vũng Tàu), An Thới (Kiên Giang) và Sơn Trà (Đà Nẵng). Tất cả các khu bảo-tồn trên đều lấy rạn san-hô làm trọng tâm v́ tầm quan-trọng của chúng về đa-dạng sinh-học biển. Tuy nhiên, theo cục kiểm lâm, hiện nay vẫn chưa có một khu bảo-tồn biển chính nào được Nhà nước quyết định và hoạt-động theo đúng nghĩa của nó. Đa số các khu bảo-tồn trên vẫn cơ bản dựa trên bảo-tồn rừng là chính.

Theo WWF, hiện nay, một điều đă trở nên cực kỳ khẩn thiết là Việt-Nam phải thiết lập cho được một hệ thống các khu bảo-tồn ven biển và ngập nước. Theo Cục Kiểm lâm, Bộ Nông-nghiệp & Phát-triển nông thôn, trong hệ thống các khu bảo-tồn thiên-nhiên vẫn c̣n quá ít các khu ngập nước và rừng ngập mặn với tổng diện-tích khoảng 3 vạn hecta. Các khu này vẫn thường xuyên bị đe doạ thu hẹp và giảm chất lượng. Đặc biệt khu bảo-tồn Ngọc Hiên 4,000ha đă bị xoá sổ. Theo Cục Kiểm lâm, cần phải tăng thêm các khu bảo-tồn khác ngay lập tức v́ diện-tích vùng biển được quy hoạch trong hai vườn quốc-gia Cát Bà. Côn Đảo và khu bảo-tồn Sơn Trà mới chỉ là 13 ngàn hecta. Một con số quá nhỏ bé so với tiềm-năng biển Việt-Nam cũng như sự cần-thiết phải tạo thành những khu bảo-tồn biển mới. WWF và IUCN đang tiếp tục triển khai các dự án mới nhằm giúp Việt-Nam h́nh-thành một hệ thống khu bảo-tồn biển thật sự.

Nguyễn Tuân: “Dư luận xă-hội với vấn đề môi trường, Đă đến lúc phải thành lập các khu bảo-tồn biển VN”1-6-1998 .

H́nh 202. Loài khỉ xinh xắn này sắp tuyệt-chủng

 

H́nh 203. Loài rùa nước ngọt này c̣n rất ít

 

 

 

Chiến-lược

Hai ñaäp Sôn La vaø Hoaø B́nh ôû thöôïng löu Soâng Ñaø laø moät vuøng coù ñoäng ñaát thöôøng xuyeân vaø maïnh nhaát nöôùc ta. Neáu coù chaán ñoäng maïnh seơ gaây vôơ ñaäp daây chuyeàn, daăn tôùi thaûm hoïa khuûng khieáp cho Haø Noäi vaø caùc trung taâm daân cö vuøng ñoàng baèng Soâng Hoàng.

FUJIO YAMAZAKI[239]

Significance of the Destruction of Dikes in North Vietnam The Tonkin Delta is an immense plain, measuring about 150 kilometres from Viet Tri, at the top of the Delta, to the mouth of the Red River and covering over 1,100,000 hectares. It is thirteen metres above sea level at the highest and 0.5 metres at the lowest with almost no slope. It is divided into many dike-encircled fields by tributaries and sub-tributary waters of the Red River. These dike-encircled paddy fields are surrounded by natural dikes made by the overflowing of the rivers and by man-made dikes constructed over many years by the peasants. Generally, the relative humidity is low in these dike-encircled paddy fields. The height of the Red River dikes in the vicinity of Hanoi is thirteen metres while that of lower land in Hanoi city is only 4m

 

 

H́nh 204. Hai đập Ḥa-B́nh (h́nh trên) và đập Sơn-La nằm trong vùng có cơ-nguy đông đất

 

Hai ñaäp Sôn La vaø Hoaø B́nh ôû thöôïng löu Soâng Ñaø laø moät vuøng coù ñoäng ñaát thöôøng xuyeân vaø maïnh nhaát nöôùc ta. Neáu coù chaán ñoäng maïnh seơ gaây vôơ ñaäp daây chuyeàn, daăn tôùi thaûm hoïa khuûng khieáp cho Haø Noäi vaø caùc trung taâm daân cö vuøng ñoàng baèng Soâng Hoàng.

 

 

Phát-triển và Bảo-vệ môi trường

Du-lịch Quảng Ninh.

5/ Bảo-vệ môi trường và các di-tích lịch-sử văn-hóa.

Bảo-vệ môi trờng vịnh Hạ Long trong khi xây-dựng, khai-thác cảng Cái Lân là vấn đề nhạy cảm nhất. Không chỉ Nhà nước-Việt Nam quan tâm mà ngay cả phía Nhật Bản khi kư hiệp định cho vay vốn cũng đă yêu cầu là chỉ khi nào phía Việt Nam có hướng dẫn về bảo-vệ môi trờng vịnh Hạ Long và báo cáo đánh giá tác động về môi trờng được duyệt th́ mới được sử-dụng vốn

vay để triển khai dự án.  

Rừng Cúc Phương

Rừng cách Hà Nội hơn 100 km về phía Tây Nam, ở vị-trí giáp ranh-giữa ba tỉnh Ninh B́nh, Hoà B́nh, Thanh Hoá và chỉ cách biển 60 km. Rừng có diện-tích 25,000 ha, trong đó 3/4 là núi đá vôi cao từ 300 đến 600 m so với mặt biển.

Khu rừng nguyên sinh này được phát hiện năm 1960 đến năm 1962 được công nhận là rừng quốc-gia. ở đây có hang Đăn Đắn, động Người Xưa, có suối nước nóng 380 C, có cây cḥ xanh, cây sấu cổ thụ... đều trên, dưới 1,000 năm tuổi, cao từ 50 đến 70 m. Con số thống-kê cho biết Cúc Phương có tới 2,000 loài cây, cỏ khác nhau. Riêng hoa phong lan tới 50 loài, có loài cho hoa và
hương thơm quanh năm.

Cúc Phương có 262 loài động-vật có xương sống, nhiều loài chim, thú quư như: gấu, ngựa, lợn ḷi, hổ, báo, chồn, sóc, khỉ v.v.. có khu chăn nuôi nửa tự nhiên với các loài hươu sao, nai, khỉ vàng, vọoc quần đùi, sóc bay, thằn lằn bay v.v..

Cúc Phương c̣n là quê hương của hàng trăm loài chim lạ và đẹp.

 

H́nh 205.Loài khỉ nhỏ này lúc xưa sống khắp nơi trong rừng VN

 

H́nh 206.  Những khu-vực bảo-tồn thiên-nhiên và những sinh-vật cần được bảo-vệ.

 

H́nh 207. Mặt nước Sông và Đê cao hơn thành-phố, làng mạc

 

Các Khu Bảo-tồn Biển & Đảo

 

 Đa dạng sinh-học

Năm 1995, Viện Hải dương học Hải Pḥng đă tiến hành khảo sát hệ sinh-thái biển và trên đảo thuộc khu-vực đề xuất xây-dựng khu bảo-tồn biển Đảo Bạch Long Vĩ . Trong đợt khảo sát này đă phát hiện được 126 loài thực-vật trên đảo và 17 loài thực-vật ngập mặn. Đối với hệ sinh-vật biển , đă ghi nhận được 95 loài san-hô và 460 loài cá (Nguyễn Huy Yết và Vơ Sỹ Tuấn 1995). Ngân-hàng Phát-triển Châu Á (1999) cho rằng đa-dạng sinh-học biển có giá trị lớn hơn so với khu-vực trên đảo, và chúng được xem là một trong những kiểu “sinh cảnh quan-trọng bặc nhất ở Vịnh

 

Các rạn san-hô bao bọc bờ biển có một chức năng vô cùng quan trọng là bảo vệ miền duyên-hải khỏi bị xói ṃn do sóng vỗ. Chức năng này rất quan trọng từ bắc vào nam trung bộ Việt Nam nơi băo thường xuyên xảy ra . Tại huyện Cát Hải, Hải Pḥng, làm ví dụ, đă phải tiêu phí hàng trăm ngh́n đô la để xây và sửa chữa đê kè bằng đă và bê tông hàng năm ven biển để bảo vệ vùng duyên-hải .

 

 

Các vấn-đề về bảo-tồn

Do nằm xa bờ từ 10 đến 12 giờ đi bằng thuyền nên Đảo Bạch Long Vĩ được sử-dụng làm cơ sở cho chương tŕnh đánh bắt cá xa bờ. Rất nhiều thuyền đánh cá neo đậu xung quanh đảo. Tài-nguyên biển ở vùng lân cận trở thành đối tượng bị đánh bắt quá mức, không hợp lư. Ví dụ: sản-lượng đánh bắt loài bào ngư Haliotis diversicolor đă bị giảm sút hàng năm . Trách nhiệm kiểm soát các hoạt-động này hiện nay chưa rơ ràng. Quân đội quản lư vùng biển, nhưng họ không có trách nhiệm quản lư và kiểm soát các hoạt-động đánh bắt hải-sản(ADB 1999).

Một trở ngại đối với công tác quản lư trong khu-vực là do cách xa đất liền nên việc tiếp cận khu-vực này bằng thuyền chận và chỉ thực-hiện được khi biển lặng. Ngoài ra, ranh-giới khu bảo-tồn biển rất khó xác định chính xác. Ngân-hàng Phát-triển Châu Á (1998) khuyến cáo rằng ranh-giới này nên mở rộng nhằm bảo các khu-vực cực kỳ quan-trọng là các băi san-hô và các băi cá đẻ xung quanh đảo. V́ lư do này Ngân-hàng Phát-triển Châu Á(1998) đề xuất một ranh-giới mở rộng trên cơ sở đường b́nh-độ ở độ sâu 40 m so với mặt nuớc biển.

 

Các giá trị khác

Bạch Long Vĩ có nghĩa là “đuôi con rồng trắng”, tên này có nguồn gốc từ một truyền thuyết về nguồn gốc của Vịnh Hạ Long. Đắt bắt cá là hoạt-động kinh-tế chủ đạo ở vịnh Hạ Long ,và Đảo Bạch Long Vĩ là nôi cá chủ-yếu đối với nghề cá trong vùng Trứng và ấu trùng cá đạt mật-độ cao trong các đợt gió mùa đối với các loài có gía trị kinh-tế vá ấu trùng của chúng tập trung chủ-yếu ở phía Đông Nam của đảo.Hơn 50 loài cá có gía trị thương mại phân bố trong khu-vực thể-hiện tính đa-dạng cao các loài cá trong vùng(ADB 1999)

 

Các dự án có liên-quan

Ngân-hàng Phát-triển Châu Á hiện có một chương tŕnh hỗ trợ kỹ-thuật vùng có tên là “Quản lư môi truờng biển vá ven bờ biển Đông”.Chương tŕnh này được giúp đỡ một phần bởi qũy hỗ trợ kỹ-thuật của Tổ-chức Hợp tác Phát-triển Thuỵ Điển. Mục đích của dự án là tăng cường toàn thiện công tác quản lư tái nguyên biển và bờ biển ở Việt Nam, Cămpuchia và Đảo Hải-Nam thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

Bộ Khoa-học, Công-nghệ và Môi trường là tổ-chức thực-hiện dự án ở Việt Nam. Đến nay, bản thảo kế-hoạch bảo-tồn biển và bờ biển đă được soạn thảo. Bản thảo này thảo luận về danh sách 30 khu bảo-tồn biển và bờ biển đă được nhà nước xem xét, trong đó 10 khu đề xuất mới. Đảo Bạch Long Vĩ nằm trong bản kế-hoạch này và là một trong 9 khu bảo rine protected areas on the coast of Vietnam]. Hai Phong :Hai Phong Institute of Oceanography. tồn biển và bờ biển được Ngân-hàng Phát-triển Châu Á kiến nghị mở rộng.

 

Tài-liệu tham khảo

-ADB (1999) Draft coastal and marine protected area plan. Hanoi : Asian Development Bank .

-Hai Phong City FPD (2000) [FPD questionnaire]. Hai Phong: Hai Phong City Forest Protection Department. In Vietnamese.

-Nguyen Chu Hoi, Nguyen Huy Yet and Dang Ngoc Thanh (1998) [ Scientific basis for marine protected areas planning]. Hai Phong : Hai Phong Institute of Oceanography. In Vietnamese.

-Nguyen Huy Yet and Vo Si Tuan (1995)[information on proposed marine    In Vietnamese……..

 

 

 

Khu Bảo-tồn biển Đảo Cô Tô

Tên khác

Không có

Tỉnh

Quảng Ninh

T́nh trạng

Đề xuất

Ban quan lư được thành-lập

Chưa thành lập

Vĩ-độ

20 56’ – 21 04’ vĩ-độ Bắc

Kinh đô

107 42’ – 107 52’ kinh-độ Đông

Vùng địa-lư sinh-học

06a - Nhiệt-đới Nam Trung hoa

 

T́nh trạng bảo-tồn

Khu đề xuất bảo-tồn biển đảo Cô Tô nằm ở trung-tâm quần đảo Cô Tô , thuộc vùng Biển Đông, cách bờ biển tỉnh Quảng Ninh khoảng 40 km. Về mặt hành chính quần đảo này thuôc huyện Cô Tô, một huyện đảo nằm xa bờ của tỉnh Quảng Ninh quản lư. Năm 1995, Viện Hải-Dương Hải-Pḥng đề nghị thành lập khu bảo-tồn biển Đảo Cô Tô, diện-tích đề xuất thành lập khu bảo-tồn là 3,850 ha, tuy nhiên đây chỉ mới là phần đất liền (Nguyễn Huy Yết và Vơ Sĩ Tuấn 1995). Tiếp theo đó, Đảo Cô Tô đă được liệt kê trong danh lục đề xuất 16 khu bảo-tồn biển của Bộ KHCN và MT năm 1998. Trong danh lục này diện-tích Đảo Cô Tô được đề xuất trong khoảng 3,000 – 4,000 ha (Nguyễn Chu Hồi et al.eds. 1998).

Gần đây hơn, trong năm1999, đề xuất thành lập khu bảo-tồn biển Đảo Cô Tô lại được Ngân-hàng Phát-triển Châu á (ADB 1999) lặp lại trong kế-hoạch xây-dựng hệ thống khu bảo-tồn biển ở Việt Nam . Trong đề xuất của Ngân-hàng Phát-triển Châu á,diện-tích của khu là 7,850 ha, bao gồm diện-tích vùng biển 4,000 ha và vùng đảo nổi là 3,850 ha .

 

Địa-h́nh và thủy văn

Khu đề xuất bảo-tồn biển được bao gồm cả quần đải có đến 25 đảo nhỏ, và ba đảo lớn nhất là Cô Tô Lớn, Thanh Lan và Cô Tô nhỏ. Một vịnh thông với biển nằm ở giữa ba đảo này có diện-tích là 2,500 ha Điểm cao nhất trên các đảo đạt 200 m ở đảo Thanh Lan. Các đảo có vùng nước mặn bao quanh, độ sâu không đến 20 m và có diện-tích rộng vào khoảng 21,500 ha. Vùng nước biển ở khu đề xuất bảo-tồn biển Đảo Cô Tô có nhiều rạn san-hô.

 

Đa dạng sinh-học

Hiện tại các đợt điều-tra vè đa-dạng sinh-học khu bảo-tồn biển Đảo Cô Tô đă ghi nhận được 151 loài thực vât nổi, 69 loài động-vật nổi, 90 loài tảo biển, 114 loài san-hô, 165 loài động-vật đáy và 191 loài cá biển (Nguyễn Chu Hối et al. eds. 1998 ). Các rạn san-hô trong vùng thuộc loài lớn và già cỗi. ưu-thế bởi các loài Acropora spp. Khu hệ thực-vật trên đất liền thuộc Đảo Cô Tô tương đối giàu, cho đến nay đă ghi nhận được 248 loài, trong khi khu hệ động-vật vùng đất liền c̣n ít được nghiên-cứu (ADB 1999).

Các vấn đề bảo-tồn

Các nguồn tài-nguyên biểncủa khu bảo-tồn Đảo Cô Tô đă bị dân địa-phương là những ngư phủ đến đây từ các vùng khác ở miền Bắc-Việt Nam, Hồng Kông, Đài Loan và Trung quốc khai-thác. Mọi hoạt-động của họ ở đây đều không được chính quyền địa-phương kiểm soát, kết quả dẫn đến việc đánh bắt thủy-sản mang tính hủy hoại như sử-dụng lưới mắt quá nhỏ và dùng chất xianua một cách phổ biến. Nhiều sản phẩm biển như mực, tôm hùm và tất nhiên là cá biển bị khai-thác một cách quá mức (ADB 1999).

 

Các giá trị khác

Hệ sinh-thái biển khu đề xuất bảo-tồn biển Đảo Cô Tô có nhiều loại quan-trọng về kinh-tế như các loài mực, bào ngư, ngọc trai và tôm hùm. Đây cũng là nơi sinh-sản và cung cấp con giống quan-trọng đối với nhiều loại cá (ADB 1999). Khu đề xuấtbảo-tồn biển rất có tiềm-năng về phát-triển sinh-thái.

 

Các dư án có liên-quan

Ngân-hàng phát-triển Châu Á hiện đang trợ giúp về kỹ-thuật cho khu-vực thông qua dự án có tên “Quản-lư môi-trường khu-vực Biển Đông” được tài trợ giúp một phần bởi cơ quan hợp tác Phát-triển Thụy Điển. Dự án nhằm mục đích tăng cường hoàn thiện quản lư các nguồn tài-nguyên biển và ven bờ trong khu-vực. Hiện dự án đang được Bộ KHCN và MT thực-hiện. Trong khuôn khổ của dự án này, bản thảo về hệ thống khu bảo-tồn biển VIệt Nam đang được hoàn thiện, chỉnh lư bao gồm 30 khu bảo-tồn biển và ven bờ biển của cả nước. Đảo Cô Tô cũng nằm trong kế-hoạch này. 

 

Khu Bảo-tồn Biển Đảo Trần

Tên khác

Không có

Tỉnh

Quảng Ninh

T́nh trạng

Đề xuất

Ban quản lư được thành lập

Chưa thành lập

Vĩ-độ

21 12’- 21 16’ vĩ-độ Bắc

Kinh đô

107 56’- 108 00’ kinh-độ Đông

Vùng địa-lư sinh-học

06 a- Nhiệt-đới nam Trung Hoa

 

T́nh trạng bảo-tồn

Đảo Trần đă có trong danh sách của 16 khu bảo-tồn biển được đề xuất do Bộ KHCN và MT soạn thảo. Không rơ diện-tích cụ thể của khu đề xuất này (Nguyễn Chu Hồi et al. eds. 1998). Đề xuất cũng chưa được Chính phủ Việt Nam phê duyệt (ADB 1999). Đề xuất thành lập khu bảo-tồn biển Đảo Trần lại được Ngân-hàng Phát-triển Châu á (ADB 1999) nhắc lại trong kế-hoạch xây-dựng hệ thống khu bảo-tồn biển của Việt Nam .Theo Ngân-hàng Phát-triển Châu á, diện-tích khu bảo-tồn lă 4,200 ha, bao gồm vùng biển 3,900 ha và vùng đất liền trên đảo là 300 ha.

 

Địa-h́nh và thủy văn

Khu bảo-tồn biển Đảo Trần có trung-tâm là Đảo Trần, một ḥn đảo nhỏ, rộng 300 ha nằm cách bờ biển tỉnh Quảng Ninh khoảng 30 km. Điểm cao nhất trên đảo là 188 m và điểm sâu nhất của khu-vực biển nằm xung quanh đảo là 10 m. Địa-h́nh đảo đặc trưng bởi vùng núi ở phía nam và hạ thấp dần về phía bắc. Dải ven bờ của đảo có các băi cát và vùng bờ biển đầy đá. Có các rạn san-hô nằm trong vùng ngậo nước ngoài khơi của đảo.

 

Đa dạng sinh-học

Lư do chủ-yếu để đề xuất khu bảo-tồn biển Đảo Trần là nhằm bảo-vệ các hệ sinh-thái san-hô và cỏ biển có xung quanh Đảo Trần . Có tất cả 41 loài san-hô cứng được ghi nhận trong các rạn san-hô phân bố tạo nên các h́nh thù san-hô riêng rẽ nằm xung quanh dảo. Khu hệ cỏ biển ưu-thế bởi 2 loài là Halophila ovalis và Cymodocea rotunda.Có rất ít thông tin về đa-dạng sinh-học trên vùng đất liền của Đảo Trần , trừ khu rừng được biết là có sự đa-dạng về các loài thực-vật (ADB 1999).

 

Các vấn đề vè bảo-tồn

Các mối đe dọa chủ-yếu ở khu bảo-tồn biển đề xuất là việc khai-thác qúa mức các sản phẩm biển, sử-dụng phuơng pháp đánh bắt mang tính hủy diệt như dùng chất nổ, và việc khai-thác gỗ ở các vùng trên đảo.Khu-vực này hiện chưa được quản lư bảo-vệ.

 

Các giá trị khác

Vùng biển khơi ở Đảo Trần là khu tạo giống thủy-sản quan-trọng của khu-vực ven bờ biển đông bắc-Việt Nam.

 

Các dự án có liên-quan

Ngân-hàng Phát-triển Châu á hiện đang thực-hiện một dự án trợ giúp kỹ-thuật có tên là “Quản lư môi trường khu-vực biển Đông” với một phần tài trợ của Cơ quan Hợp tác Phát-triển Thuỵ Điển. Dự án nhằm mục đích tăng cường việc quản lư toàn vẹn các nguồn tào nguyên biẻn và ven bờ biển trong khu-vực, hiện dự án đang được Bộ KHCN và MT thực-hiện . Trong khuôn khổ của dự án này,bản thảo về hệ thống khu bảo-tồn biển bao gồm 30 khu bảo-tồn đề xuất biển và ven bờ biển của cả nước đang được hoàn thiện, chỉnh lư. Đảo Trần cũng nằm trong kế-hoạch này.

 

 

Khu BTTN Ba Mùn

 

Khu bảo-tồn thiên-nhiên Ba Mùn có trong Quyết Định 41/TTg, ngày 24/1/1977 của Thủ tướng Chính phủ, với diện-tích 2,000 ha và có tên là Đảo Ba Mùn (Bộ Nông-nghiệp & PTNT 1997).Năm 1998, Bộ Nông-nghiệp & PTNT đề nghị xây-dựng dự án đầu tư cho Ba Mùn theo Quyết định số 1784/ KH – QS, ngày 12/6/1998, và đến tháng 11 cùng năm, một dự án đầu tư thành lập khu bảo-tồn thiên-nhiên Ba Mùn đă được Viện Điều tra Quy hoạch Rừng xây-dựng (Anon. 1998). Dự án đầu tư trên đă được Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Bộ Nông-nghiệp & PTNT phe duyệt. Tháng 9/1999 Khu bảo-tồn thiên-nhiên Ba Mùn chính thức được thành lập.Theo dự án đầu tư, khu bảo-tồn thiên-nhiên được xác định bao gồm toàn bộ đảo Ba Mùn ở vị-trí thủy triều thấp nhất, với diện-tích 2,153 ha ( Anon. 1988).Khu bảo-tồn thiên-nhiên Ba Mùn có trong danh sách đề xuất các khu rừng đặc dụng Việt Nam đến năm 2010 (Cục Kiểm Lâm 1998).

Trên cơ sở giá trị của đa-dạng sinh-học và giá trị tiềm-năng về kinh-tế, đặc biệt là du-lịch sinh-thái của đảo Ba Mùn,Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh đề nghị chuyển hạng Khu bảo-tồn thiên-nhiên Ba Mùn thành vườn Quốc-gia trên biển. Dự án đầ tư Vườn quốc-gia trên biển lấy tên là Bái Tử Long đă được Viện Điều tra Quy hoạch Rừng xây-dựng vào tháng 10/1999 và đă được Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh phê duyệt. Nếu dự án đầu tư được Bộ Nông-nghiệp & PTNT thông qua th́ Vườn Quốc-gia biển Bái Tử Long sẽ được thành lập với diện-tích13,000 ha, bao gồm toàn bộ đảo Ba Mùn, các ḥn đảo xung quanh và một phần lớn diện-tích mặt biển. Trong khi chuẩn bị thành lập Vườn quốc-gia biển, nhiều cuộc khảo sát đă được tiến hành trong khu-vực vào tháng 5 và tháng 6 năm 2000 (Việt Nam News 2000).

 

Địa-h́nh và thủy văn

Khu bảo-tồn thiên-nhiên Ba Mùn nằm trên đảo Ba Mùn thuộc quần đảo Vân-Hải trong vịnh Bái Tử Long.Khu bảo-tồn nằm trong địa-phận của xă Minh Châu, huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh. Đảo Ba Mùn nằm cách thị trấn Cái Rồng ( huyện lỵ Vân Đồn ) 20 km và cách điểm đất liền gần nhất là 30 km. Đảo Ba Mùn là một dải đất hẹp chạy theo hướng Bắc Nam với chiều dài 18 km, c̣n chiều rộng trung-b́nh là 1 km. Đỉnh cao nhất trên đảo là Cái Quưt 307 m so với mực nước biển. Các con suối bắt nguồn từ đường dông trung-tâm của đảo chảy về phía Đông hoặc phía Tây. Hầu hết các suối này chỉ có nước theo mùa. Một đặc điểm nổi bật về địa chất là trong khi hầu hết các đảo trong quần đảo Vân-Hải là núi đá vôi th́ đảo Ba Mùn có thành phần đá mẹ là Phiến thạch, đá Cát kết.

 

Đa dạng sinh-học

Khu Bảo-tồn Thiên-nhiên Ba Mùn có 2,000 ha rừng nhiệt-đới thường xanh đất thấp, tuy nhiên hầu hết rừng đă bị tác động bởi khai-thác chọn các loài cây gỗ, chỉ c̣n lại rất ít diện-tích rừng chưa bị tác động. Thành phần loài cây gỗ đa-dạng, không có họ thực-vật ưu-thế. Các loài cây gỗ phổ biến thuộc các họ : Vang Caesalpiniaceae.Chè Theaceae, Dầu Dipterocarpaceae, Trâm Myrtaceae. Sến Sapotaceae. Khu bảo-tồn c̣n có 175 ha rừng ngập mặn phân bố dọc bờ biển phía Tây của đảo. Loài ưu-thế trong rừng ngập mặn thường là Tra aegiceras corniculata, và một số loài khác như Vẹt Bruguiera gymnorhiza, Trang Kandelia candel và Đước Rhizophora stylosa. Ngoài ra, trong khu-vực c̣n có một diện-tích nhỏ trảng cỏ h́nh thành từ đất nông-nghiệp bỏ hoang với ưu-thế thuộc về loài Cỏ tranh Imperata cylindrica, Lau Erianthus arundinacea và Lách Saccharum spontaneum.

Thực-vật rừng trên đảo Ba Mùn có thành phần loài phong-phú, đến nay đă ghi nhận được 398 loài thực-vật bậc cao có mạch thuộc 109 họ. Trong số đó có 4 loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam là Kim giao Decussocarpus fleuryi, Giác đế trung hoa Goniothalamus chinensis, Ba kích Morinda officinalis và Thổ phục linh Smilax glabra; 3 loài được ghi trong Danh lục các loài thực-vật bị đe doạ của IUCN là Kim giao Decussocarpus fleuryi, Sao hồng gai Hopea chinensis và Lá nón Licuala tonkinensis.

Mặc dù đảo Ba Mùn bị cô lập với đất liền, nhưng hệ động-vật có xương sống vẫn rất đa-dạng.Trước năm 1975, đảo Ba Mùn được biết đến là một ḥn đảo có hệ động-vật đa-dạng và phong-phú nhất ở tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên, sau vài thập kỷ, việc săn bắt và khai-thác gỗ trái phép đă làm cho hệ động-vật Ba Mùn suy giảm nghiêm trọng (Anon. 1998). Theo tài-liệu của dự án đầu tư (Anon. 1998), loài Lợn rừng Sus scorofa và Mang Muntiacus muntjak vẫn c̣n xuất hiện trên đảo, nhưng không thấy xuất hiện các loài thú lớn như Gấu ngựa Ursus thibetanus.

H́nh 208. Sến Sapotaceae

 

H́nh 209. Lợn rừng Sus scorofa

 

Các vấn đề về bảo-tồn

Nh́n chung mức độ tác động của con người tới tài-nguyên thiên-nhiên ỏ Ba Mùn hiện tại thấp. Hiện nay không có dân-cư sống trong khu bảo-tồn và mật-độ dân số b́nh quân ở ba xă vùng đệm (Minh Châu, Quan Lạn và Bản Sen ) là 41 người /km2, mật-độ dân số này thấp so với mật-độ dân số toàn quốc là 232 người /km2. Khu bảo-tồn thiên-nhiên nằm xa các trung-tâm dân-cư, hơn nữa theo người dân đây là ḥn đảo thiêng nên ít bị tác động so với các đảo lân cận.

Mối đe dọa lớn nhất đối với đa-dạng sinh-học ở Ba Mùn hiện nay là săn bắn và khai-thác gỗ. Các loại gỗ được khai-thác sử-dụng trong xây-dựng nhà cửa, sản-xuất gỗ trụ mỏ cho các mỏ than ở tỉnh Quảng Ninh. Các loài gỗ bị khai-thác phổ biến là Lim xanh Erythrophleum ford́i, Tàu lá nhỏ Vatica odorata, Sao hồng gai Hopea chinensis, Gội nếp Aglaia gigantea và Sến Madhuca sp.. Do săn bắt qúa mức nên các loài thú lớn đă bị suy giảm nghiêm trọng trong 10 năm gần đây, một số loài có thể đă bị tiêu diệt trong khu bảo-tồn. Mặc dù các hoạt-động kiểm soát việc săn bắn trái phép đă được tăng cường trong những năm gần đây, nhưng dường như vẫn chưa kiểm soát được t́nh trạng trên. Kiểm soát chặt chẽ khai-thác gỗ và buôn bán động-vật hoang dă, đồng thời tiến hành các hoạt-động nâng cao nhận thức về bảo-tồn thiên-nhiên có thể làm giảm phần nào các mối đe dọa trên (Anon.1998)

 

Các giá trị khác

Là ḥn đảo cuối cùng ở Vịnh Bái Tử Long c̣n r&#